Đặt vấn đề: Ứng dụng những lợi ích của nội soi trong phẫu thuật tim hở tại Việt Nam còn rất mới, chưa có công trình nào trong nước công bố về lĩnh vực này. Nghiên cứu được tiến hành nhằm tổng kết những kinh nghiệm ban đầu và đánh giá kết quả sớm của phương pháp phẫu thuật tim hở ít xâm lấn với nội soi hỗ trợ tại trung tâm tim mạch bệnh viện E.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, tiến cứu, do cùng một nhóm phẫu thuật. Từ tháng 5/2013 đến tháng 3/2014 tổng số 63 bệnh nhân được phẫu thuật: đóng thông liên nhĩ, thay van hai lá, sửa van hai lá, sửa toàn bộ thông sàn nhĩ thất bán phần, lấy u nhầy nhĩ trái, bắc cầu chủ vành, cắt màng ngăn nhĩ trái, sửa hẹp van động mạch phổi.Kết quả: Thành công trên 60 bệnh nhân. 2 bệnh nhân phải mở rộng đường mở ngực,1 trường hợp chuyển mở xương ức do chảy máu từ động mạch liên thất sau, 1 bệnh nhân chảy máu sau mổ phải mở lại đường mở ngực lấy máu cục màng phổi; không có tử vong bệnh viện.Kết luận: phương pháp an toàn, khả thi, có thể triểnkhai thường quy với điều kiện trang thiết bị hiện có.
Mục tiêu: Đánh giá sự an toàn và khả thi của phẫu thuật cắt thùy phổi nội soi ở những trẻ bị dị dạng phổi bẩm sinh. Phương pháp: Thiết kế mô tả hồi cứu tất cả các trường hợp dị dạng phổi bẩm sinh được phẫu thuật nội soi cắt thùy phổi tại Bệnh viện Nhi đồng 2 từ tháng 12/2017 đến tháng 08/2020. Kết quả: Có 38 bệnh nhi từ 1 tháng đến 12 tuổi được phẫu thuật nội soi cắt thùy phổi điều trị dị dạng phổi bẩm sinh. Cân nặng từ 3.8 đến 51 kg. Chẩn đoán trước mổ gồm phổi biệt trí (n=11), dị dạng nang tuyến phổi bẩm sinh (n=26) và khí phế thũng thùy phổi bẩm sinh (n=1). Tất cả các trường hợp đều mổ nội soi thành công, dù thông khí 1 phổi không thể thực hiện ở 10 trường hợp. Thời gian phẫu thuật từ 80 đến 200 phút. Có 11 trường hợp cắt thùy trên, 3 thùy giữa, 21 thùy dưới và 3 trường hợp phổi biệt trí ngoài thùy. Không có biến chứng liên quan đến phẫu thuật trong mổ và sau mổ được ghi nhận. Ống dẫn lưu được đặt ở tất cả bệnh nhân từ 1 đến 3 ngày. Thời gian nằm viện kéo dài từ 4 đến 30 ngày. Nguyên nhân nằm viện kéo dài đều do biến chứng viêm phổi trước hoặc sau mổ. Kết luận: Phẫu thuật nội soi cắt thùy phổi ở trẻ bị dị dạng phổi bẩm sinh là an toàn và khả thi, mặc dù thông khí 1 phổi không phải lúc nào cũng thực hiện được.
Bệnh lý van động mạch chủ (ĐMC) thường xuyên được điều trị bằng cách thay thế van ĐMC bằng một van tim nhân tạo. Chúng tôi đã tiến hành tái tạo van ĐMC bằng màng ngoài tim tự thân đã qua xử lý bằng Glutaraldehyde theo phương pháp Ozaki cho 21 bệnh nhân từ tháng 7 năm 2017 đến tháng 3 năm 2018. Mười ba bệnh nhân hẹp van động mạch chủ, 8 bệnh nhân hở van động mạch chủ. Ba bệnh nhân van ĐMC có hai lá van, 1 bệnh nhân viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn. Chúng tôi có 13 bệnh nhân nam và 8 nữ. Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 58,6 ± 10,5 tuổi. Trước tiên, cắt bỏ các lá van bị bệnh. Sau đó, đo khoảng cách giữa các mép của lá van. Các lá van mới được đo và cắt dựa vào bộ đo sẵn có từ màng ngoài tim tự thân được xử lý bằng Glutaraldehyde. Cuối cùng, Các lá van mới bằng màng tim được khâu vòng quanh vòng van ĐMC. Một bệnh nhân nào tử vong do chảy máu sau mổ. 01 bệnh nhân phải chuyển thay van động mạch chủ bằng van sinh học. Siêu âm tim qua thực quản trong mổ không có bệnh nhân hở chủ nhẹ trở lên. Chênh áp qua van động mạch chủ đo ngay trong mổ và sau mổ 1 đến 2 tuần tương ứng là 19,3 ± 4,7mmHg và 18,7 ± 4,2 mmHg. Không có bệnh nhân nào phải mổ lại.
Đặt vấn đề: Thở oxy dòng cao qua mũi (HFNC) làm giảm nhu cầu đặt nội khí quản (NKQ) ở bệnh nhân suy hô hấp do COVID-19. Ngược lại trì hoãn đặt NKQ có thể dẫn tới kết cục xấu. Ngừng tuần hoàn nội viện xuất hiện trong đại dịch COVID-19 thường xuyên, chiếm 14%. Ngừng tuần hoàn có khả năng đe dọa tính mạng và liên quan đến rối loạn chức năng tim và dẫn tới tử vong. Chỉ 12% bệnh nhân được hồi sinh tim phổi sống sót ra viện và chỉ 7% bệnh nhân sống sót sau khi xuất viện với tình trạng thần kinh bình thường hoặc giảm nhẹ.1 Phương pháp: Mô tả hồi cứu trường hợp lâm sàng về đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, xử trí, kết quả và nhìn lại y văn. Trường hợp: Ca bệnh đầu tiên chúng tôi mô tả ở một bệnh nhân nữ 62 tuổi bị COVID-19 mức độ nguy kịch. Bệnh nhân được thở HFNC thất bại vào ngày thứ 9 sau đó được đặt NKQ thở máy, bệnh nhân xuất hiện ngừng tuần hoàn nội viện sau đặt NKQ 45 phút. Nguyên nhân gây ngừng tuần hoàn có thể là do toan hô hấp cấp tính, tổn thương cơ tim cấp (nhồi máu cơ tim hoặc viêm cơ tim cấp) và hậu quả của cơn bão Cytokine. Bệnh nhân được cấp cứu ngừng tuần hoàn bởi các bác sĩ hồi sức cấp cứu. Tuần hoàn tự nhiên được tái lập sau 5 phút. Bệnh nhân được an thần, thở máy xâm nhập. Bệnh nhân được rút nội khí quản sau 6 ngày và xuất viện vào ngày thứ 35 với tình trạng thần kinh bình thường. Kết luận: Việc trì hoãn đặt NKQ ở bệnh nhân thở HFNC có thể dẫn tới kết cục xấu. Khi xảy ra ngừng tuần hoàn, cấp cứu đúng quy trình bởi các bác sĩ có kinh nghiệm giúp tăng khả năng tái lập tuần hoàn tự nhiên và giảm tỷ lệ biến chứng thần kinh.
scite is a Brooklyn-based organization that helps researchers better discover and understand research articles through Smart Citations–citations that display the context of the citation and describe whether the article provides supporting or contrasting evidence. scite is used by students and researchers from around the world and is funded in part by the National Science Foundation and the National Institute on Drug Abuse of the National Institutes of Health.
hi@scite.ai
10624 S. Eastern Ave., Ste. A-614
Henderson, NV 89052, USA
Copyright © 2024 scite LLC. All rights reserved.
Made with 💙 for researchers
Part of the Research Solutions Family.