Thuyên tắc động mạch phổi là bệnh lý phổi gây tử vong cao nhất và là nguyên nhân đứng thứ ba gây tử vong ở bệnh viện. Tỉ lệ tử vong có thể tới 65% nếu chẩn đoán muộn ở giai đoạn có trụy tim mạch. Đã có một số báo cáo trong nƣớc về điều trị nội – ngoại khoa thuyên tắc động mạch phổi trong môi trƣờng ngoại khoa, song chƣa có báo cáo nào về điều trị thuyên tắc động mạch phổi trên bệnh nhân đa chấn thƣơng. Chúng tôi thông báo một trƣờng hợp bệnh nhân nữ 65 tuổi, bị TTĐMP cấp trên bệnh nhân đa chấn thƣơng đã đƣợc phẫu thuật thành công tại khoa Tim mạch và lồng ngực, bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, vào tháng 09/2016, nhằm rút ra nhận xét ban đầu về loại thƣơng tổn nguy hiểm này và nhìn lại y văn.
Trong thời gian từ tháng 2/2010 đến 12/2014 có 93 bệnh nhân đƣợc phẫu thuật. Tuổi trung bình 65,34 ± 7,65 (44 - 83), nữ chiếm 22,66%. Phƣơng pháp mổ bắc cầu chủ vành kinh điển với tuần hoàn ngoài cơ thể, cặp động mạch chủ làm ngừng tim, bảo vệ cơ tim bằng dung dịch máu ấm. Khám lại, đánh giá kết quả trung hạn dựa trên triệu chứng lâm sàng, siêu âm tim qua thành ngực, chụp kiểm tra cầu nối bằng chụp động mạch vành chọn lọc hoặc chụp cắt lớp vi tính đa dãy. 87/93 bệnh nhân sống ra viện. Thời gian theo dõi trung bình 52,13 ± 14,79 tháng (25 – 79), mất theo dõi: 2 bệnh nhân. Tử vong trong thời gian theo dõi 9(10,58%) (6 do nguyên nhân tim mạch), còn sống 76. Lâm sàng: 13 bệnh nhân đau ngực lại, không có trƣờng hợp nào suy tim NYHA III, IV. Siêu âm tim so sánh tại thời điểm trƣớc mổ, ra viện và khám lại: rối loạn vận động vùng giảm, chỉ số EF cải thiện có ý nghĩa ở nhóm bệnh nhân EF thấp tại thời điểm ra viện, số bệnh nhân có rối loạn vận động vùng tăng lên trong thời gian theo dõi. Tổng số 225 cầu nối đƣợc chụp kiểm tra: còn thông 141(62,67%), hẹp tắc: 84/225 (37,33%). Cầu nối vào ĐMV hẹp ≥ 95% trƣớc mổ có tỉ lệ tắc hẹp thấp hơn (p = 0,009). Mạch ghép động mạch ngực trong có tỉ lệ cầu nối còn thông cao nhất, không có sự khác biệt giữa mạch ghép động mạch quay và tĩnh mạch hiển lớn (p < 0,05). Bệnh nhân sau bắc cầu chủ vành cải thiện về lâm sàng. Các biến cố tim mạch chính hay gặp trong thời gian theo dõi sau mổ: tử vong, hẹp tắc cầu nối phải can thiệp lại. Mạch ghép động mạch ngực trong là cầu nối có chất lƣợng tốt nhất.
Đặt vấn đề: Mổ mở kinh điển điều trị ngực lõm bẩm sinh được áp dụng từ hàng chục năm nay với kết quả tương đối hạn chế. Phẫu thuật theo phương pháp Nuss khắc phục được nhiều hạn chếđó, nhất là khi kết hợp nội soi lồng ngực. Bệnh viện Việt Đức đã áp dụng phẫu thuật Nuss kết hợp nội soi từ 2010. Việc so sánh kết quả phẫu thuật theo 2 phương pháp là cần thiết để khẳng định ưu thế của phẫu thuật Nuss điều trị ngực lõm bẩm sinh hiện nay. Phương pháp: Mô tả hồi cứu trên 30 bệnh nhân được mổ mở kinh điển (Nhóm 1, giai đoạn 2000 – 2010) và 53 bệnh nhân phẫu thuật Nuss (Nhóm 2, giai đoạn 2010 – 2011), về đặc điểm trước – trong mổ và kết quả sau mổ. Kết quả: Không có sự khác biệt về tuổi trung bình (14,5 và 16,0 tuổi) và giới tính (Nam 83,3% và 88,8%) giữa 2 nhóm. Thời gian mổ trung bình của nhóm 1 (117 ± 34 phút) dài hơn nhiều của nhóm 2 (69 ± 24 phút). Thời gian nằm viện của nhóm 1 (7,6 ± 4,3 ngày) cũng dài hơn nhóm 2 (5,2 ± 1,2 ngày). Kết quả tốt ngay sau mổ là 63,4% ở nhóm 1 và 92,5% ở nhóm 2. Kết quả trung hạn: chỉ có 13,6% hết lõm ở nhóm 1, so với nhóm 2 là 56,6%; và 18,1% bệnh nhân hài lòng ở nhóm 1 so với 94,3% ở nhóm 2. Kết luận: Phương pháp Nuss kết hợp nội soi lồng ngực là lựa chọn tốt trong điều trịbệnh ngực lõm bẩm sinh, với ưu thế toàn diện so với mổ mở kinh điển cả về thẩm mỹ, thời gian phẫu thuật, thời gian nằm viện, kết quả cải thiện tình trạng lõm ngực
Nghiên cứu mô tả tiến cứu 14 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn I được điều trị bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực một lỗ từ tháng 10/2016 tới 03/2018 về các thông số trước, trong và sau mổ. Bao gồm 09 nam và 05 nữ. Tuổi trung bình 59,6 ± 4,5 (54 - 74). Phát hiện bệnh do khám sức khỏe định kỳ 5/14 trường hợp (35,7%). Triệu chứng chính khi vào viện là đau ngực là 07/ 09 trường hợp (77,8%). Triệu chứng ho máu là 02/ 09 trường hợp (22,2%). Kích thước khối u trung bình 2,4 x 2,9cm, trong đó kích thước nhỏ nhất 1,5x1,9cm; lớn nhất 2,7 x 3,5cm. Thời gian phẫu thuật 156,5 ± 16,4 phút (140-186). Thời gian rút dẫn lưu màng phổi trung bình 5,4 ± 0,6 ngày (4-9). Số ngày nằm viện trung bình 7,4 ± 0,8 ngày (5-18). Không có tử vong và biến chứng nặng sau mổ. Kết quả giải phẫu bệnh sau mổ: 03 ung thư biểu mô vảy và 11 ung thư biểu mô tuyến. Giai đoạn ung thư: 08 trường hợp giai đoạn IB và 06 trường hợp giai đoạn IA. Điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn I bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực một lỗ là một phương pháp có độ an toàn, có tính khả thi và kết quả tốt sau phẫu thuật.
Nghiên cứu mô tả, 24 bệnh nhân hẹp 3 thân mạch vành được phẫu thuật bắc cầu phối hợp bóc nội mạc mạch vành trong thời gian từ 2011 – 2014, thời gian theo dõi trung bình 51,2 ± 13,7 tháng. 24 bệnh nhân ( nam: 20 nữ: 4), tuổi trung bình 63, 8 (52 – 81 tuổi), bệnh nhân được bắc tối thiểu 3 cầu nối vào 3 thân mạch vành (số cầu nối trung bình 4,3±0,7). Động mạch vành bóc nội mạc: liên thất trước 24,1%, vành phải: 37,9%, động mạch mũ: 13,8%, nhánh chéo: 24,1%. Thời gian chạy máy tim phổi 180,9 ± 28,2 phút; cặp động mạch chủ 147,2 ± 26,0 phút; thở máy 18,9 ± 10,5 giờ ; nằm hồi sức 4,8 ± 0,9 ngày, tử vong sớm: 2 (8,3%). Không có tai biến về mặt kỹ thuật. Tử vong trong thời gian theo dõi 2 bệnh nhân. Chụp kiểm tra 17 cầu nối: 2 cầu nối tắc, 15 cầu nối thông. Bóc nội mạc mạch vành phối hợp là giải pháp lựa chọn trong phẫu thuật bắc cầu chủ vành nhằm đạt được mục đích tái tưới máu mạch vành toàn bộ. Phẫu thuật được chỉ định hạn chế trong trường hợp thương tổn nặng lan tỏa gây tắc hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn, mạch xơ vữa nặng khó thực hiện được miệng nối một cách có chất lượng. Chỉ định được phẫu thuật viên quyết định trong mổ.
Mục tiêu: Thông báo kết quả ca ghép hai phổi từ người cho đa tạng chết não đầu tiên tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức. Đối tượng và phương pháp: Mô tả trường hợp lâm sàng ca ghép hai phổi được thực hiện vào ngày 12 tháng 12 năm 2018, và theo dõi đến tháng 8 năm 2020. Kết quả: Người hiến đa tạng là nam, 43 tuổi, người nhận là nam, 17 tuổi. Phù hợp miễn dịch người cho – người nhận ở mức tốt. Thương tổn phổi của người nhận là bệnh mô bào phổi (Langerhans) giai đoạn cuối. Ca mổ ghép phổi kéo dài 15 giờ, dựa trên các qui trình đã xây dựng chi tiết trước mổ. Hậu phẫu rất phức tạp, kéo dài 10 tháng sau mổ, với 2 tháng đầu khá thuận lợi, sau đó xuất hiện nhiều biến chứng muộn. Hiện bệnh nhân còn sống sau mổ 20 tháng, với các di chứng hẹp vừa đường hô hấp mạn tính. Kết luận: Ghép phổi là một kỹ thuật rất phức tạp, tổ chức thực hiện khó khăn.
Đặt vấn đề: Tổn thương mạch máu ngoại vi là cấp cứu ngoại khoa thường gặp. Tại Hải Phòng, Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp tiếp nhận hầu hết các cấp cứu ngoại mạch máu của khu vực; do vậy nghiên cứu “Đặc điểm lâm sàng, hình thái tổn thương và kết quả điều trị chấn thương, vết thương động mạch chi dưới” là cần thiết, có ý nghĩa trong đào tạo và thực hành chuyên khoa. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Kết quả: 33 bệnh nhân trong khoảng thời gian từ 1/2014 đến 7/2019, 40 thương tổn động mạch (ĐM), tuổi trung bình 34,6 ± 14,7. Lâm sàng chủ yếu là các dấu hiệu gián tiếp. Đa số bệnh nhân được phẫu thuật cấp cứu trong 6 giờ đầu sau bị thương. Hình thái tổn thương ĐM hay gặp là đụng dập kèm đứt rời và đứt rời; tập trung ở nhóm động mạch chày, đùi nông, khoeo. Phương pháp phẫu thuật chủ yếu là khâu nối động mạch trực tiếp, ghép mạch tự thân, thắt mạch. Kết quả điều trị: đa số bệnh nhân xếp loại tốt, tỉ lệ tử vong 6,1%. Kết luận: Tổn thương ĐM chi dưới do chấn thương, vết thương là cấp cứu mạch máu hay gặp. Phương pháp điều trị chủ yếu là phẫu thuật phục hồi lưu thông động mạch. Kết quả điều trị khá tốt, song vẫn có trường hợp hoại tử cắt cụt chi; tử vong.
Đặt vấn đề: Phẫu thuật tim hở cấp cứu điều trị Lóc động mạch chủ type A cấp tính – một dạng bệnh lý tim mạch rất nặng, đã trở thành thường quy tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, với một số báo cáo kết quả cho những năm trước 2016. Nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật cho giai đoạn 2018-2021, với nhiều tiến bộ về kỹ thuật và trang thiết bị - vật tư. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu với cỡ mẫu thuận tiện, gồm tất cả các bệnh nhân được phẫu thuật điều trị lóc ĐMC type A giai đoạn 2018 – 2021, tại Trung tâm Tim mạch và lồng ngực, bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Kết quả: Có 201 trường hợp, tuổi trung bình 57 ± 12 tuổi, nam giới chiếm 76,7% (154 ca). Chèn ép tim cấp trước mổ biểu hiện ở 7,5% (14 ca). Bệnh nhân có kiểu hình Marfan chiếm 4% (8 ca). Phương pháp phẫu thuật: thay động mạch chủ lên đơn thuần 51,2% (103 ca), thay bán phần quai và toàn bộ quai lần lượt là 16,9% và 22,9%, trong đó phẫu thuật vòi voi cải tiến chiếm 10,9%. Thời gian điều trị hồi sức trung bình 12,1 ± 8,8 ngày, tỷ lệ mở khí quản 15,8 %. Tử vong sớm tại viện gặp ở 22 ca (10,9%) do nhiều nguyên nhân khác nhau. Kết luận: trong vài năm gần đây, chúng tôi đã áp dụng nhiều kỹ thuật mổ đa dạng và cập nhật để điều trị bệnh lóc động mạch chủ type A cấp tính với những kết quả sớm thu được là khả quan.
scite is a Brooklyn-based organization that helps researchers better discover and understand research articles through Smart Citations–citations that display the context of the citation and describe whether the article provides supporting or contrasting evidence. scite is used by students and researchers from around the world and is funded in part by the National Science Foundation and the National Institute on Drug Abuse of the National Institutes of Health.
hi@scite.ai
10624 S. Eastern Ave., Ste. A-614
Henderson, NV 89052, USA
Copyright © 2024 scite LLC. All rights reserved.
Made with 💙 for researchers
Part of the Research Solutions Family.