Những biến động đô thị tốc độ nhanh và quy mô rộng trong những thập kỷ gần đây đã gây ra rất nhiều thách thức trong công tác bảo tồn và quy hoạch sử dụng đất, đặc biệt là công tác bảo tồn di tích lịch sử. Tốc độ phát triển đặt ra một thách thức cho các nhà quy hoạch đô thị, việc mở rộng ranh giới thành phố thường xuyên vượt quá quy hoạch. Điều này dẫn đến những thách thức hơn nữa cho các nhà quy hoạch đô thị, cụ thể là (i) cơ sở dữ liệu quy hoạch thường bị lỗi thời và (ii) các quá trình, mô hình tăng trưởng đô thị không có kế hoạch không được tính toán một cách hợp lý. Bài viết này trình bày một cách tiếp cận để giải quyết những thách thức này bằng cách sử dụng dữ liệu viễn thám đa thời gian để nghiên cứu sự thay đổi lớp phủ/sử dụng đất trong gần nửa thế kỷ (1968-2016) bằng cách sử dụng dữ liệu vệ tinh SPOT và bản đồ địa hình từ NIMA do thư viện trường Đại học Texas công bố. Một phân tích chi tiết về mở rộng không gian đô thị được định lượng bằng các chỉ số đô thị hóa khác nhau. Kết quả chỉ ra rằng quá trình mở rộng đô thị đã mang lại những thay đổi lớn về sử dụng đất và tăng trưởng đô thị, dẫn đến những tác động đáng kể đến không gian cảnh quan của các di tích. Các phát hiện tiếp tục cho thấy sự suy giảm về đất nông nghiệp và không gian xanh kéo dài trong suốt 48 năm. Kết quả không chỉ xác nhận khả năng ứng dụng và hiệu quả của phương pháp tích hợp giữa viễn thám và đo lường mà còn cho thấy các đặc điểm đáng chú ý về thời gian của thay đổi sử dụng đất và động lực mở rộng đô thị trong các khoảng thời gian khác nhau (1968-1995, 1995-2000, 2000-2005, 2005-2011, và 2011-2016).
Mục tiêu: Bào chế được hệ tiểu phân nano polymer curcumin. Phương pháp nghiên cứu: Bào chế nano polymer bằng nhũ hoá bốc hơi dung môi, rắn hoá bằng phun sấy và đánh giá một số đặc tính của hệ tiểu phân nano polymer bằng các phương pháp hóa lý. Kết quả: Khảo sát xây dựng được công thức bào chế nano polymer curcumin gồm polymer là Eudragit RS 100 (tỷ lệ Eudragit/curcumin là 1/1 (kl/kl)); chất diện hoạt là Tween 80, nồng độ 2%; tỷ lệ pha nội/pha ngoại là 3/20 (tt/tt). Đã khảo sát lựa chọn được một số thông số quá quy trình là: tốc độ nhũ hóa 800 vòng/phút trong 5 phút; tốc độ đồng nhất 6000 vòng/phút trong 10 phút, thời gian bốc hơi dung môi 3 giờ. Hệ tiểu phân nano polymer được rắn hoá bằng phương pháp phun sấy thu được bột màu vàng, khô, tơi, đồng nhất, độ ẩm 2,38 ± 0,01%, hàm lượng curcumin 9,39 ± 0,1 mg/g. Sau khi tái phân tán lại trong nước cho kích thước tiểu phân (KTTP) là 102,4 ± 10,4 nm; chỉ số đa phân tán là 0,45 ± 0,04; thế zeta là 4,6 ± 0,34; độ hoà tan in vitro sau 10 phút của curcumin đạt 85,41% và độ tan của curcumin là 582,7 ± 21,9 µg/mL. Kết luận: Đã bào chế và đánh giá được một số đặc tính của hệ tiểu phân nano polymer curcumin.
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng giảm đau sau mổ mở vùng bụng của hỗn hợp Levobupivacain - Dexamethason đường ngoài màng cứng liên tục. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, ngẫu nhiên so sánh trên 60 bệnh nhân có chỉ định mổ mở vùng bụng được chia làm 2 nhóm bao gồm nhóm L (n = 30): bệnh nhân được giảm đau sau mổ bằng Levobupivacain và nhóm LD (n = 30): bệnh nhân được giảm đau sau mổ bằng hỗn hợp Levobupivacain - Dexamethason. Kết quả: So với nhóm L, nhóm LD có thời gian khởi phát tác dụng của liều khởi đầu ngắn hơn 7,35 ± 0,70 phút so với 8,98 ± 1,37 phút; liều duy trì thấp hơn 281,70 ± 46,01 mg so với 336,90 ± 87,18mg; tỷ lệ bệnh nhân cần liều bolus và liều “giải cứu đau” thấp hơn 13,3% so với 43,3%; liều fentanyl “giải cứu đau” thấp hơn 2,00 ± 10,95mcg so với 25,30 ± 41,93mcg; điểm VAS khi nghỉ và khi vận động thấp hơn từ thời điểm giờ thứ 6 đến giờ thứ 72 sau mổ. Kết luận: Phối hợp Levobupivacain - Dexamethason đường ngoài màng cứng sau phẫu thuật mở vùng bụng cho hiệu quả tốt hơn Levobupivacain đơn thuần.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, tác động của lượng mưa cực đoan và các tác động dây chuyền của nó đã gia tăng mạnh mẽ ở các huyện miền núi tỉnh Quang Nam, Việt Nam. Sử dụng phương pháp phân chia lưu vực kết hợp với đánh giá nguy cơ lũ quét theo lưu vực với ngưỡng mưa ngày lớn nhất được phân chia thành 77 lưu vực với 5 mức độ nguy cơ lũ quét trên địa bàn các huyện miền núi trong khu vực nghiên cứu. Kết quả, cho thấy mức độ nguy cơ thấp (I và II) chiếm 79,5% diện tích của toàn huyện miền núi, mức độ nguy cơ cao và rất cao (IV và V) chiếm 10,5% phân bố ở các huyện (Nam Trà My, Tây Giang) thuộc 7 LVG (417, 44, 419, 393, 402, 425 và 415).
Phẫu thuật nội soi cắt ruột thừa thường được thực hiện dưới gây mê toàn thân, tuy nhiên việc sử dụng kỹ thuật gây tê vùng cũng mang lại những lợi ích nhất định trong một số trường hợp bệnh nhân có bệnh nền như bệnh phổi, bệnh tim mạch... Chúng tôi thông báo ca lâm sàng bệnh nhân nữ 75 tuổi với các bệnh nền tăng huyết áp, đái tháo đường, giãn phế quản, suy tim độ II. Tại thời điểm nhập viện, xét nghiệm glucose máu 30,4mmol/L, XQ phổi hình ảnh giãn phế quản vùng dưới 2 bên phổi, siêu âm tim và điện tim có hình ảnh hở van 2 lá nhẹ, giãn nhĩ trái, phân suất tống máu EF 40%, rung nhĩ. Phẫu thuật nội soi ruột thừa đã được thực hiện thành công bằng phương pháp gây tê tuỷ sống với bupivacain 0,5% tỷ trọng cao. Sau phẫu thuật không có biến chứng nào xảy ra và bệnh nhân được ra viện sau phẫu thuật 5 ngày.
scite is a Brooklyn-based organization that helps researchers better discover and understand research articles through Smart Citations–citations that display the context of the citation and describe whether the article provides supporting or contrasting evidence. scite is used by students and researchers from around the world and is funded in part by the National Science Foundation and the National Institute on Drug Abuse of the National Institutes of Health.
hi@scite.ai
10624 S. Eastern Ave., Ste. A-614
Henderson, NV 89052, USA
Copyright © 2024 scite LLC. All rights reserved.
Made with 💙 for researchers
Part of the Research Solutions Family.