Enterococcus kháng vancomycin (VRE) là mối đe dọa toàn cầu về kháng kháng sinh không chỉ trong bệnh viện mà ở cả cộng đồng. Sự xuất hiện VRE có thể liên quan đến sử dụng avopacin - một yếu tố kích thích sự tăng trưởng trong chăn nuôi ở động vật. Các VRE có thể lan truyền sang người, thực phẩm, nước thải và xa hơn thông qua các sinh vật trung gian như ruồi. 709 chủng E. faecalis đã được phân lập từ người, vật nuôi, ruồi, nước thải trong các trang trại chăn nuôi và từ thực phẩm ở các chợ lận cận. Bằng kỹ thuật PCR xác định các gen liên quan đến tính kháng vancomycin bao gồm van A, van B, van C1, van C2, van D, van M và van N. Có 24 chủng dương tính với van C (3,4%) trong đó 15 chủng mang gen van C1, 9 chủng mang gen van C2. Không phát hiện thấy các gen van còn lại trên bất kỳ chủng nào. Sử dụng kỹ thuật MIC thử nghiệm tính nhạy cảm với vancomycin cho thấy, chỉ có 3/709 chủng (chiếm 0,4%) biểu hiện kiểu hình kháng vancomycin với MIC = 32µg/ml (theo CLSI 2020) được phân lập từ phân người và ở ruồi. Tỷ lệ E. faecalis kháng vancomycin trong cộng đồng còn thấp, tuy nhiên vẫn là mối đe dọa tiềm ẩn đối với sức khỏe con người.
Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện tại Thanh Hóa từ tháng 3 - 6/2022 đã phỏng vấn 315 nam có quan hệ tình dục đồng giới (MSM) nhằm mô tả các hành vi nguy cơ trong nhóm MSM và tiếp cận dịch vụ dự phòng lây nhiễm HIV trong nhóm quần thể này. Kết quả cho thấy 93,0% MSM tham gia nghiên cứu thuộc nhóm tuổi từ 16 - 34 tuổi; số lần quan hệ tình dục (QHTD) trung bình 1 tháng là 3,0 lần (SD = ± 2,4); 11,4% đã từng có quan hệ tình dục với nhiều người cùng một lúc; 97,8% MSM có sử dụng bao cao su (BCS) trong lần QHTD gần nhất. Tỷ lệ MSM tham gia nghiên cứu đã từng tiêm chích ma túy thấp (0,6%); tỷ lệ tham gia điều trị PrEP cao 75,9%. Phân tích mô hình đa biến cho thấy những người được tiếp cận với các thông tin truyền thông về phòng chống HIV/AIDS tham gia chương trình điều trị dự phòng trước phơi nhiễm HIV (PrEP) nhiều hơn so với những người chưa từng được nhận các thông tin truyền thông về phòng chống HIV/AIDS (OR* = 4,78; 95%KTC = 1,73 - 13,21). Tuy nhiên, những người chưa từng QHTD tập thể tham gia điều trị PrEP nhiều hơn nhưng người đã từng QHTD tập thể (OR* = 3,90; 95%KTC = 1,72 - 8,85). Do đó, việc tăng cường truyền thông về PrEP và nguy cơ lây nhiễm HIV đối với nhóm MSM, mở rộng phạm vi chương trình hướng đến nhiều đối tượng, đặc biệt là các đối tượng có hành vi nguy cơ lây nhiễm cao là rất cần thiết.
Tăng cường đảm bảo chất lượng xét nghiệm thông qua các bộ mẫu ngoại kiểm ngày càng phổ biến trong hệ thống xét nghiệm tại Việt Nam. Mục tiêu của nghiên cứu là xây dựng và đánh giá bộ mẫu ngoại kiểm máu toàn phần cho chương trình ngoại kiểm huyết thanh học HIV tại Việt Nam chocác phòng xét nghiệm (PXN) sử dụng mẫu máu đầu ngón tay. Bộ mẫu được sản xuất gồm 10 mẫu trong đó có 6 mẫu âm tính và 4 mẫu dương tính với kháng thể kháng HIV. Kết quả đánh giá trong PXN cho thấy bộ mẫu đạt độ đồng nhất 100% và đảm bảo độ ổn định tại 30 ngày trong điều kiện nhiệt độ phòng và 2-8oC. Các mẫu âm tính và dương tính không có sự khác biệt về độ tán huyết tại ngày thứ 30 tại 4oC (33,87mg/dl so với 65,53mg/dl, p = 0,91) và tại nhiệt độ phòng (144,27 mg/dl so với 163,56mg/dl, p = 0,77), đáp ứng các yêu cầu cho xét nghiệm kháng thể HIV. Bộ mẫu được gửi tới 27 PXN để đánh giá thử nghiệm, có 93% các PXN báo cáo bộ mẫu dễ thực hiện và 100% PXN mong muốn sử dụng bộ mẫu. Như vậy, bộ mẫu chuẩn máu toàn phần đáp ứng các tiêu chuẩn của mẫu ngoại kiểm và có thể sử dụng cho các đơn vị xét nghiệm HIV sử dụng mẫu máu đầu ngón tay.
Giám sát trọng điểm HIV (GSTĐ) hoặc giám sát trọng điểm HIV lồng ghép hành (GSTĐ+) vi được triển khai định kỳ hai năm một lần trên nhóm nam nghiện chích ma túy (NCMT) tại 20 tỉnh/thành phố nhằm mô tả chiều hướng nhiễm HIV, giang mai, các chỉ số hành vi nguy cơ và tiếp cận các dịch vụ về HIV/AIDS. Sử dụng nghiên cứu mô tả cắt ngang với phương pháp chọn mẫu theo cụm - hai giai đoạn. Kết quả GSTĐ+ giai đoạn 2017 - 2021 cho thấy tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm nam NCMT vẫn duy trì ở mức độ cao 14,2% (2017), 13,0% (2019) và 12,3% (2021). Tỷ lệ hiện nhiễm giang mai thấp và thay đổi không đáng kể, 1,5% (2017), 1,5% (2019) và 1,3% (2021). Tỷ lệ dùng chung bơm kim tiêm (BKT) trong tháng qua giảm dần qua các năm, từ 5,4% năm 2017 xuống 1,7% năm 2021. Tỷ lệ đã từng tham gia điều trị Methadone đạt 40%. Tỷ lệ NCMT được xét nghiệm HIV trong 12 tháng qua giai đoạn 2017 - 2021 còn thấp chỉ đạt 50,7% (2017), 38,6% (2019), 40,8% (2021). Kết luận: Tỷ lệ hiện nhiễm HIV duy trì mức cao, tỷ lệ nhiễm giang mai thấp nhưng chiều hướng nhiễm không có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê giai đoạn 2017 - 2021. Cần cải thiện và da dạng các chương trình dự phòng giúp phát hiện sớm người nhiễm HIV giang mai và đưa vào điều trị.
Phương cách xét nghiệm (PCXN) chẩn đoán HIV Quốc gia được khuyến cáo cho các phòng xét nghiệm (PXN) từ năm 2015. Việc áp dụng các PCXN không phù hợp có thể dẫn đến những sai sót trong chẩn đoán HIV. Bài báo này với mục tiêu mô tả việc áp dụng PCXN chẩn đoán HIV và các sai sót tại PXN từ năm 2014 đến 2018 thông qua chương trình ngoại kiểm HIV. Bộ mẫu ngoại kiểm gồm 10 mẫu được xác định rõ đặc tính là âm tính hay dương tính với kháng thể HIV gửi đến từ 451-628 PXN khu vực miền Bắc và miền Trung. Biểu mẫu thu thập thông tin bằng phần mềm trực tuyến cho biết PCXN sử dụng và các sai sót nếu có của PXN tham gia. Kết quả: các đơn vị áp dụng PCXN được khuyến cáo tăng từ 62,09% năm 2014 lên đến 77,1% năm 2018. Tỷ lệ sai sót ở các PXN áp dụng PCXN khuyến cáo thấp hơn các PXN áp dụng PCXN không được khuyến cáo (2014 là 3,2 so với 7,5; 2015 là 1,1% so với 1,6%; 2016 là 2,8%, 1,7% so với 3,6%, 6,3%; 2017 là 2,1%, 2,2% so với 2,2%, 4,2%; 2018 là 3,2% so với 3,8%). Áp dụng PCXN chẩn đoán HIV là hết sức cần thiết góp phần quan trọng nâng cao chất lượng xét nghiệm HIV ở Việt Nam.
Tóm tắt: Glucagonoma là một loại u của tế bào α ở các tiểu đảo tuyến tụy, trong đó các tế bào α tăng sinh và tiết ra rất nhiều glucagon. Glucagonoma là một bệnh rất hiếm gặp, tỷ lệ mắc hàng năm ước tính xấp xỉ 1/20.000.0001. Bệnh đặc trưng bởi các triệu chứng hồng ban di chuyển hoại tử (necrolytic migratory erythema-NME), tăng glucagon máu, đái tháo đường, thiếu máu, sụt cân, viêm lưỡi, viêm môi, tiêu chảy, huyết khối tĩnh mạch và các rối loạn tâm thần kinh2. Trong đó, hồng ban di chuyển hoại tử được coi là dấu hiệu lâm sàng đặc trưng của hội chứng glucagonoma. Trong nghiên cứu của Song và cộng sự trên 425 bệnh nhân gluconoma được báo cáo trong y văn3 thấy biểu hiện này gặp ở 82,4% bệnh nhân. Nhận biết sớm dấu hiệu này cho phép chẩn đoán sớm và đem lại tiên lượng tốt hơn cho bệnh nhân. Phẫu thuật cắt bỏ khối u là phương pháp điều trị triệt căn duy nhất. Ở những bệnh nhân khối u giai đoạn tiến triển không thể cắt bỏ được, truyền tĩnh mạch somatostatin, hóa trị liệu, xạ trị có thể giúp làm giảm triệu chứng nhưng tiên lượng sống thường xấu2. Chúng tôi xin phép báo cáo một trường hợp glucagonoma được chẩn đoán muộn trong bệnh cảnh suy kiệt và shock nhiễm khuẩn.
Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới, từ năm 2013, Bộ Y tế giao nhiệm vụ cho Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương (VSDTTƯ) xây dựng và ban hành phương cách xét nghiệm HIV quốc gia để hạn chế các sai sót trong chẩn đoán. Mục tiêu của nghiên cứu là xây dựng ngân hàng mẫu chuẩn cho đánh giá phương cách xét nghiệm chẩn đoán HIV. Ngân hàng mẫu chuẩn đã được xây dựng có tổng số 800 mẫu thu thập từ các nhóm nguy cơ lây nhiễm HIV khác nhau, cả nam và nữ với độ tuổi khác nhau, ở 5 tỉnh/thành Hà Nội, Lào Cai, Nghệ An, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Các mẫu được bảo quản vận chuyển, đánh giá đạt yêu cầu về chất lượng và được Phòng thí nghiệm tham chiếu quốc gia về HIV- ISO 15189, Viện VSDTTƯ xét nghiệm xác định đặc tính theo tiêu chuẩn vàng gồm 488 mẫu âm tính, 297 mẫu dương tính với HIV và 15 mẫu khó chẩn đoán. Các mẫu được chia thành các ống nhỏ với thể tích 1ml/ống, có dán nhãn mã số, xếp trong hộp lưu theo sơ đồ bố trí khoa học và bảo quản ở tủ lạnh âm 70oC trở xuống. Ngoài ra, thông tin của từng mẫu được lưu trữ trong phần mềm quản lý ngân hàng mẫu phục vụ công tác tìm kiếm, xuất nhập mẫu sẵn sàng phục vụ công tác đánh giá phương cách xét nghiệm HIV.
scite is a Brooklyn-based organization that helps researchers better discover and understand research articles through Smart Citations–citations that display the context of the citation and describe whether the article provides supporting or contrasting evidence. scite is used by students and researchers from around the world and is funded in part by the National Science Foundation and the National Institute on Drug Abuse of the National Institutes of Health.
hi@scite.ai
10624 S. Eastern Ave., Ste. A-614
Henderson, NV 89052, USA
Copyright © 2024 scite LLC. All rights reserved.
Made with 💙 for researchers
Part of the Research Solutions Family.