Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện tại Thanh Hóa từ tháng 3 - 6/2022 đã phỏng vấn 315 nam có quan hệ tình dục đồng giới (MSM) nhằm mô tả các hành vi nguy cơ trong nhóm MSM và tiếp cận dịch vụ dự phòng lây nhiễm HIV trong nhóm quần thể này. Kết quả cho thấy 93,0% MSM tham gia nghiên cứu thuộc nhóm tuổi từ 16 - 34 tuổi; số lần quan hệ tình dục (QHTD) trung bình 1 tháng là 3,0 lần (SD = ± 2,4); 11,4% đã từng có quan hệ tình dục với nhiều người cùng một lúc; 97,8% MSM có sử dụng bao cao su (BCS) trong lần QHTD gần nhất. Tỷ lệ MSM tham gia nghiên cứu đã từng tiêm chích ma túy thấp (0,6%); tỷ lệ tham gia điều trị PrEP cao 75,9%. Phân tích mô hình đa biến cho thấy những người được tiếp cận với các thông tin truyền thông về phòng chống HIV/AIDS tham gia chương trình điều trị dự phòng trước phơi nhiễm HIV (PrEP) nhiều hơn so với những người chưa từng được nhận các thông tin truyền thông về phòng chống HIV/AIDS (OR* = 4,78; 95%KTC = 1,73 - 13,21). Tuy nhiên, những người chưa từng QHTD tập thể tham gia điều trị PrEP nhiều hơn nhưng người đã từng QHTD tập thể (OR* = 3,90; 95%KTC = 1,72 - 8,85). Do đó, việc tăng cường truyền thông về PrEP và nguy cơ lây nhiễm HIV đối với nhóm MSM, mở rộng phạm vi chương trình hướng đến nhiều đối tượng, đặc biệt là các đối tượng có hành vi nguy cơ lây nhiễm cao là rất cần thiết.
Xét nghiệm HIV là điểm khởi đầu của sự liên kết liênmtục giữa chẩn đoán, chăm sóc và điều trị HIV góp phần giảm sự lây truyền HIV ra cộng đồng. Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 300 người nam nghiện chích ma túy (NCMT) từ 16 tuổi trở lên, sống tại 5 quận/huyện của tỉnh Quảng Ninh năm 2021 nhằm xác định tỷ lệ thực hiện xét nghiệm chẩn đoán nhiễm HIV trong 12 tháng qua và mô tả một số yếu tố liên quan trên nhóm nam NCMT. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ đã từng đi làm xét nghiệm HIV ở nhóm NCMT tại Quảng Ninh là 98,3% và tỷ lệ xét nghiệm HIV lần gần đây nhất trong 12 tháng là 52,7%. Có hai yếu tố làm giảm xu hướng xét nghiệm HIV trong 12 tháng qua của nhóm nam NCMT là đã từng quan hệ tình dục (QHTD) với phụ nữ bán dâm (PNBD) (OR = 0,33; 95%KTC: 0,18 - 0,61; p = 0,000) và những người có tình trạng hôn nhân là góa, ly dị hoặc ly thân so với những người độc thân (OR = 0,35; 95%KTC: 0,16 – 0,79; p = 0,012). Cần mở rộng và đa dạng hóa các mô hình xét nghiệm để tăng khả năng tiếp cận của nhóm NCMT, đồng thời chú trọng tư vấn xét nghiệm HIV hơn nữa cho nhóm có hành vi quan hệ tình dục với PNBD.
Từ khóa-Đa tác tử, đèn giao thông thông minh, lôgic mờ, mô hình hóa và mô phỏng. I. ĐẶT VẤN ĐỀHiện nay, cơ sở hạ tầng giao thông (GT) ở nước ta chưa được phát triển tốt cùng với đó là sự gia tăng nhanh chóng số lượng các phương tiện tham gia (PTTGGT) đã gây nên tình trạng ách tắc GT một cách thường xuyên ở các tuyến đường huyết mạch của các thành phố lớn. Trong khi đó, hầu hết các hệ thống đèn tín hiệu GT ở nước ta hiện nay hoạt động dựa trên nguyên tắc định thời, với chu kỳ đóng mở đèn xanh-đỏ được thiết lập cố định cho các tuyến đường trên các nút giao cắt. Điều này tỏ ra kém hiệu quả khi số lượng các phương tiện lưu thông trên các tuyến đường thường không đều nhau. Với chu kỳ đèn tín hiệu cố định, số lượng xe trên tuyến đường có lưu lượng cao tại một thời điểm nhất định nào đó sẽ tích lũy theo thời gian, gây nên tình trạng dồn ứ tại một tuyến đường, còn tuyến đường còn lại thì lại thông thoáng. Đây cũng là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến tắc nghẽn tại các điểm nút giao cắt có tín hiệu đèn. Điều này không chỉ gây lãng phí về thời gian, nhiên liệu mà còn ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tâm lý người dân và môi trường sinh thái.Công nghệ đa tác tử với các ưu điểm nổi bật về khả năng hoạt động tự chủ, có thể cảm nhận và tương tác với môi trường. Nó có thể thực hiện các xử lý thông minh thay thế cho con người để thực thi những công việc được giao. Các trụ tín hiệu đèn GT tại một điểm giao cắt có thể được coi như là các tác tử. Chúng có thể chia sẻ thông tin về luồng GT tại tuyến đường của nó với các trụ khác. Vấn đề đặt ra là với tại một thời điểm t nào đó, với số lượng các phương tiện tham gia GT hiện hữu thì thời gian đóng mở tín hiệu xanh-đỏ của các đèn là bao nhiêu để tối ưu hóa luồng GT, giảm tối đa tình trạng chờ của các PTTGGT, góp phần cân bằng trong việc điều chỉnh lưu lượng GT trên một khu vực rộng lớn hơn của mạng lưới đường bộ.Trong bài báo, chúng tôi giới thiệu mô hình đa tác tử điều khiển tín hiệu đèn GT thông minh dựa trên lý thuyết lôgic mờ. Mô hình này có khả năng đưa ra những quyết định thời gian đóng mở tín hiệu đèn một cách tự động theo thời gian thực dựa trên số lượng các PTTGGT thực tế. Bài báo có cấu trúc như sau: đầu tiên là phần đặt vấn đề, tiếp theo là phần tổng quan về các mô hình điều khiển tín hiệu đèn GT thông minh trên thế giới, phần ba là đề xuất mô hình đa tác tử điều khiển tín hiệu đèn GT thông minh. Phần tiếp theo là cài đặt thử nghiệm và đánh giá mô hình. Phần cuối cùng sẽ là thảo luận và kết luận. II. TỔNG QUAN CÁC MÔ HÌNH ĐIỀU KHIỂN TÍN HIỆU ĐÈN GIAO THÔNG THÔNG MINHXây dựng hệ thống điều khiển tín hiệu đèn GT là một trong nhưng vấn đề đáng quan tâm trong việc xây dựng hệ thống GT thông minh, giảm thiểu việc tác nghẽn GT ở các thành phố lớn. Các phương pháp thường được các nhà khoa học nghiên cứu và ứng dụng, đó là giải thuật di truyền Điều khiển giao thông sử dụng thuật toán di truyềnThuật toán di truyền dựa trên sự mô phỏng quá trình tồn tại của các cá thể trong quần thể. Các cá thể tốt sẽ tồn tại thông qua quá trình chọn lọc của tự nhiên và quần thể tồn tại sẽ tiến hóa dần về lờ...
Tăng cường đảm bảo chất lượng xét nghiệm thông qua các bộ mẫu ngoại kiểm ngày càng phổ biến trong hệ thống xét nghiệm tại Việt Nam. Mục tiêu của nghiên cứu là xây dựng và đánh giá bộ mẫu ngoại kiểm máu toàn phần cho chương trình ngoại kiểm huyết thanh học HIV tại Việt Nam chocác phòng xét nghiệm (PXN) sử dụng mẫu máu đầu ngón tay. Bộ mẫu được sản xuất gồm 10 mẫu trong đó có 6 mẫu âm tính và 4 mẫu dương tính với kháng thể kháng HIV. Kết quả đánh giá trong PXN cho thấy bộ mẫu đạt độ đồng nhất 100% và đảm bảo độ ổn định tại 30 ngày trong điều kiện nhiệt độ phòng và 2-8oC. Các mẫu âm tính và dương tính không có sự khác biệt về độ tán huyết tại ngày thứ 30 tại 4oC (33,87mg/dl so với 65,53mg/dl, p = 0,91) và tại nhiệt độ phòng (144,27 mg/dl so với 163,56mg/dl, p = 0,77), đáp ứng các yêu cầu cho xét nghiệm kháng thể HIV. Bộ mẫu được gửi tới 27 PXN để đánh giá thử nghiệm, có 93% các PXN báo cáo bộ mẫu dễ thực hiện và 100% PXN mong muốn sử dụng bộ mẫu. Như vậy, bộ mẫu chuẩn máu toàn phần đáp ứng các tiêu chuẩn của mẫu ngoại kiểm và có thể sử dụng cho các đơn vị xét nghiệm HIV sử dụng mẫu máu đầu ngón tay.
Giám sát trọng điểm HIV (GSTĐ) hoặc giám sát trọng điểm HIV lồng ghép hành (GSTĐ+) vi được triển khai định kỳ hai năm một lần trên nhóm nam nghiện chích ma túy (NCMT) tại 20 tỉnh/thành phố nhằm mô tả chiều hướng nhiễm HIV, giang mai, các chỉ số hành vi nguy cơ và tiếp cận các dịch vụ về HIV/AIDS. Sử dụng nghiên cứu mô tả cắt ngang với phương pháp chọn mẫu theo cụm - hai giai đoạn. Kết quả GSTĐ+ giai đoạn 2017 - 2021 cho thấy tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm nam NCMT vẫn duy trì ở mức độ cao 14,2% (2017), 13,0% (2019) và 12,3% (2021). Tỷ lệ hiện nhiễm giang mai thấp và thay đổi không đáng kể, 1,5% (2017), 1,5% (2019) và 1,3% (2021). Tỷ lệ dùng chung bơm kim tiêm (BKT) trong tháng qua giảm dần qua các năm, từ 5,4% năm 2017 xuống 1,7% năm 2021. Tỷ lệ đã từng tham gia điều trị Methadone đạt 40%. Tỷ lệ NCMT được xét nghiệm HIV trong 12 tháng qua giai đoạn 2017 - 2021 còn thấp chỉ đạt 50,7% (2017), 38,6% (2019), 40,8% (2021). Kết luận: Tỷ lệ hiện nhiễm HIV duy trì mức cao, tỷ lệ nhiễm giang mai thấp nhưng chiều hướng nhiễm không có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê giai đoạn 2017 - 2021. Cần cải thiện và da dạng các chương trình dự phòng giúp phát hiện sớm người nhiễm HIV giang mai và đưa vào điều trị.
Phương cách xét nghiệm (PCXN) chẩn đoán HIV Quốc gia được khuyến cáo cho các phòng xét nghiệm (PXN) từ năm 2015. Việc áp dụng các PCXN không phù hợp có thể dẫn đến những sai sót trong chẩn đoán HIV. Bài báo này với mục tiêu mô tả việc áp dụng PCXN chẩn đoán HIV và các sai sót tại PXN từ năm 2014 đến 2018 thông qua chương trình ngoại kiểm HIV. Bộ mẫu ngoại kiểm gồm 10 mẫu được xác định rõ đặc tính là âm tính hay dương tính với kháng thể HIV gửi đến từ 451-628 PXN khu vực miền Bắc và miền Trung. Biểu mẫu thu thập thông tin bằng phần mềm trực tuyến cho biết PCXN sử dụng và các sai sót nếu có của PXN tham gia. Kết quả: các đơn vị áp dụng PCXN được khuyến cáo tăng từ 62,09% năm 2014 lên đến 77,1% năm 2018. Tỷ lệ sai sót ở các PXN áp dụng PCXN khuyến cáo thấp hơn các PXN áp dụng PCXN không được khuyến cáo (2014 là 3,2 so với 7,5; 2015 là 1,1% so với 1,6%; 2016 là 2,8%, 1,7% so với 3,6%, 6,3%; 2017 là 2,1%, 2,2% so với 2,2%, 4,2%; 2018 là 3,2% so với 3,8%). Áp dụng PCXN chẩn đoán HIV là hết sức cần thiết góp phần quan trọng nâng cao chất lượng xét nghiệm HIV ở Việt Nam.
Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới, từ năm 2013, Bộ Y tế giao nhiệm vụ cho Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương (VSDTTƯ) xây dựng và ban hành phương cách xét nghiệm HIV quốc gia để hạn chế các sai sót trong chẩn đoán. Mục tiêu của nghiên cứu là xây dựng ngân hàng mẫu chuẩn cho đánh giá phương cách xét nghiệm chẩn đoán HIV. Ngân hàng mẫu chuẩn đã được xây dựng có tổng số 800 mẫu thu thập từ các nhóm nguy cơ lây nhiễm HIV khác nhau, cả nam và nữ với độ tuổi khác nhau, ở 5 tỉnh/thành Hà Nội, Lào Cai, Nghệ An, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Các mẫu được bảo quản vận chuyển, đánh giá đạt yêu cầu về chất lượng và được Phòng thí nghiệm tham chiếu quốc gia về HIV- ISO 15189, Viện VSDTTƯ xét nghiệm xác định đặc tính theo tiêu chuẩn vàng gồm 488 mẫu âm tính, 297 mẫu dương tính với HIV và 15 mẫu khó chẩn đoán. Các mẫu được chia thành các ống nhỏ với thể tích 1ml/ống, có dán nhãn mã số, xếp trong hộp lưu theo sơ đồ bố trí khoa học và bảo quản ở tủ lạnh âm 70oC trở xuống. Ngoài ra, thông tin của từng mẫu được lưu trữ trong phần mềm quản lý ngân hàng mẫu phục vụ công tác tìm kiếm, xuất nhập mẫu sẵn sàng phục vụ công tác đánh giá phương cách xét nghiệm HIV.
Theo số liệu báo cáo trên thế giới và Việt Nam, phụ nữ bán dâm (PNBD) là một trong những nhóm có nguy cơ cao lây nhiễm HIV. Chương trình giám sát trọng điểm HIV/STI lồng ghép hành vi (HSS+) năm 2022 tại tỉnh Nghệ An điều tra cắt ngang 200 PNBD nhằm mô tả thực trạng sử dụng bao cao su và các yếu tố liên quan đến hành vi không sử dụng bao cao su thường xuyên khi quan hệ với khách quen ở nhóm này. Kết quả cho thấy tỷ lệ PNBD sử dụng bao cao su tất cả các lần quan hệ tình dục với khách lạ là 85,4%, với khách quen là 79,9%, với chồng/người yêu là 29,5%. Kết quả phân tích cho thấy các yếu tố làm giảm tỷ lệ sử dụng bao cao su trong tất cả các lần quan hệ tình dục của PNBD với khách quen là: Trình độ học vấn từ tiểu học trở xuống (OR = 4,18; 95%KTC: 1,15 - 15,15), chưa từng được nhận bao cao su miễn phí (OR = 4,76; 95%KTC: 1,83 - 12,34), không khám các bệnh lây truyền qua đường tình dục trong 3 tháng qua (OR = 2,51; 95%KTC: 1,04 - 6,02). Do đó, cần có những biện pháp tăng cường độ bao phủ của các dịch vụ dự phòng lây nhiễm HIV và truyền thông cho nhóm phụ nữ bán dâm, từ đó làm tăng tỷ lệ sử dụng bao cao su và giảm tỷ lệ nhiễm HIV cho nhóm này khi quan hệ tình dục với khách hàng đặc biệt là trong nhóm khách hàng được coi là khách quen.
scite is a Brooklyn-based organization that helps researchers better discover and understand research articles through Smart Citations–citations that display the context of the citation and describe whether the article provides supporting or contrasting evidence. scite is used by students and researchers from around the world and is funded in part by the National Science Foundation and the National Institute on Drug Abuse of the National Institutes of Health.
hi@scite.ai
10624 S. Eastern Ave., Ste. A-614
Henderson, NV 89052, USA
Copyright © 2024 scite LLC. All rights reserved.
Made with 💙 for researchers
Part of the Research Solutions Family.