“…Các nghiên cứu trong nước thường đánh giá sự sẵn lòng chi trả của người tiêu dùng bằng mô hình CVM (Contingent Valuation Method) đối với các thuộc tính bảo tồn rừng, đa dạng sinh học, nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, an toàn cho sức khoẻ của người tiêu dùng, bảo vệ môi trường, dịch vụ nước sạch được cải thiện, dịch vụ thu gom, quản lý và xử lý chất thải rắn… (Song và ctv., 2011;Thuận và Danh, 2011;Khôi và Ngân, 2014;Hạnh và ctv., 2015;Thuỷ và ctv., 2015;Trang và Tú, 2016;Huân, 2017;Huê, 2018;Hiếu và ctv., 2019;Khải và Phương, 2020). Các tác giả ngoài nước cũng ước lượng mức độ sẵn sàng chi trả của cộng đồng cho các dịch vụ bảo tồn môi trường và hệ sinh thái, gạo thân thiện môi trường (Carson & Mitchell, 1993;Mitchell & Carson, 2013;Alves et al, 2015;Tu et al, 2021), bảo tồn đa dạng sinh học và các động vật quí hiếm đang bị đe doạ (Fernandez & Subade, 2005;Indab, 2006).…”