Mục tiêu: Đánh giá mức độ thuận lợi của phẫu thuật răng khôn bằng phương pháp target controlled infusion (TCI) propofol. Đối tượng và Phương pháp: thử nghiệm lâm sàng, ngẫu nhiên có đối chứng. Tiến hành trên 60 bệnh nhân nhổ răng khôn, tuổi 16 - 50, ASA I, II. Nhóm 1 (n = 30): Gây mê toàn thân để tiến hành phẫu thuật tại khoa Gây mê, Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội. Nhóm 2 (n = 30): Sử dụng nồng độ propofol an thần theo đích tại não (Ce) bằng propofol 10%. Phương pháp đánh giá: đặc điểm chung, mức độ khó phẫu thuật răng khôn hàm dưới theo pedersen, thời gian phẫu thuật, mức độ cử động của bệnh nhân theo Ellis, mức độ an thần OAA/S, tổng liều lidocain, mức độ hài lòng của phẫu thuật viên theo VAS. Kết quả: Nhóm 2 có tuổi trung bình là 27,17 ± 9,27 năm tương đương nhóm 1 là 27,33±8,62 năm (p>0,05); cân nặng trung bình nhóm 2 là 56,67 ± 10,37 kg tương đương nhóm 1 là 55,46 ± 10,15kg (p>0,05); tổng liều thuốc tê lidocain là 205.9 ± 24.95mg tương đương nhóm 1 là 191.1 ± 31.14mg (p>0,05). Nhóm 2 có tổng liều propofol trung bình là 107.27 ± 13.86 mg thấp hơn nhóm 1 có tổng liều propofol trung bình là 278.5 ± 73.31 (p<0,05), mức an thần nhóm 1 cho phép phẫu thuật (5> OAA/S ≥ 3),2 nhóm có mức độ khó của răng như nhau thời gian phẫu thuật của 2 nhóm tương đương nhau(p>0,05), Số bệnh nhân cử động khác nhau không có ý nghĩa (p>0,05), Mức độ rất hài lòng của PTV ở nhóm 2 cao hơn nhóm 1 (p<0,05). Kết luận: sử dụng phương pháp an thần đích propofol trong phẫu thuật răng khôn cho hiệu quả an thần tốt, tạo thuận lợi cho phẫu thuật viên.
Đánh giá hiệu quả của phương pháp đặt nội khí quản qua da trong phẫu thuật chấn thương hàm mặt. Nghiên cứu mô tả trên 31 bệnh nhân phẫu thuật chấn thương hàm mặt được đặt nội khí quản qua da tại Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội từ tháng 01 đến 11/2022. Đánh giá trên các tiêu chí đặc điểm phẫu thuật, thời gian đặt ống nội khí quản, tỷ lệ số bệnh nhân tụt ống nội khí quản, biến chứng của phương pháp. Kết quả cho thấy tuổi trung bình là 30,13 ± 13,99 tuổi, tỷ lệ bệnh nhân nam (80,65%) cao hơn có ý nghĩa (p = 0,001) so với nữ (19,35%), tỷ lệ bệnh nhân chấn thương phức hợp mũi sàng (58,06%) cao hơn có ý nghĩa (p = 0,008) so với chấn thương Lefort III (29,03%), chấn thương hai hàm và xương chính mũi (12,91%), thời gian đặt nội khí quản là 5,61 ± 0,44 phút, 3,22% bệnh nhân tụt ống nội khí quản khi chuyển ống qua đường dẫn và 3,22% khi đưa trở lại đường miệng, 6,45% bệnh nhân chảy máu tại đường dẫn. Như vậy, đặt nội khí quản qua da là phương pháp hữu ích trong những trường hợp phẫu thuật chấn thương hàm mặt khi cần phải chỉnh đúng khớp cắn trong phẫu thuật và có thể thay thế cho cuộc mở khí quản.
Đánh giá hiệu quả giảm đau của ketorolac kết hợp paracetamol trong phẫu thuật khe hở môi một bên ở trẻ em được nghiên cứu thực hiện trên 60 bệnh nhân từ 6 đến 12 tháng tuổi phẫu thuật khe hở môi một bên tại Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội từ 6 - 2020đến 10 – 2020; bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm theo ngày phẫu thuật chẵn, lẻ. Nhóm F (nhóm chứng, n = 30) bệnh nhân phẫu thuật ngày chẵn: sử dụng giảm đau fentanyl, nhóm K (n = 30) bệnh nhân phẫu thuật ngày lẻ: sử dụng giảm đau ketorolac kết hợp paracetamol. Đánh giá dựa trên các tiêu chí: đặc điểm chung, mức độ mê, mức độ đau, biến đổi trên tim – tuần hoàn trong quá trình phẫu thuật. Kết quả đạt được với đặc điểm chung, độ mê, mức độ đau, tần số tim, huyết áp ở nhóm K khác biệt không ý nghĩa (với p > 0,05) so với nhóm F. Do đó, việc sử dụng ketorolac kết hợp paracetamol trong phẫu thuật khe hở môi một bên ở trẻ nhỏ có hiệu quả giảm đau tốt.
Đau sau phẫu thuật lớn vùng hàm mặt gây ảnh hưởng lớn tới sinh hoạt và quá trình hồi phục của người bệnh. Chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu RCT trên 60 bệnh nhân có phẫu thuật lớn vùng hàm mặt được chia hai nhóm: nhóm 1 sử dụng TCI sufentanil kết hợp midazolam và nhóm 2 sử dụng TCI sufentanil đơn thuần để giảm đau hậu phẫu. Kết quả: đánh giá hiệu quả mức độ an thần theo OAA/S tại T0 (bắt đầu TCI): hai nhóm tương đồng nhau; từ T1 (1h) tới T7 (24h) nhóm 2 thấp hơn nhóm 1 (p < 0,05). Từ T0 tới T7, để đạt được mức độ giảm đau theo VAS tương đồng, nhóm 1 đã có số lần giải cứu đau (1,86 ± 0,72 lần) và tổng lượng thuốc sử dụng (67, 91 ± 9,87mcg) thấp hơn nhóm 2 (với p < 0,01) có số liệu tương ứng là 5,63 ± 1,45 lần và 75,75 ± 14,06mcg. Kết luận: sử dụng TCI sufentanil kết hợp midazolam sau phẫu thuật lớn vùng hàm mặt cho hiệu quả an thần, giảm đau tốt hơn và giảm tiêu thụ thuốc hơn so với TCI sufentanil đơn thuần.
Phẫu thuật lấy nẹp vít xương hàm mặt là phẫu thuật loại trung bình và nhỏ thường được can thiệp dưới gây mê. Gần đây, các tác giả trên thế giới đã và đang sử dụng TCI propofol cho các phẫu thuật tương tự với nhiều ưu điểm, tuy nhiên tại Việt Nam phương pháp này chưa được áp dụng. Nghiên cứu RCT của chúng tôi đã thực hiện so sánh trên 60 bệnh nhân tháo nẹp xương hàm được gây mê thường quy hoặc TCI propofol kết hợp gây tê tại chỗ bằng lidocain 2%. Kết quả cho thấy hiệu quả mê của hai phương pháp là tương đồng với các chỉ số mức độ mê, mức độ đau và độ hợp tác của bệnh nhân. Ngoài ra, thời gian an thần/gây mê và phẫu thuật của nhóm TCI (54,80 ± 8,21 phút) ngắn hơn có ý nghĩa (p < 0,05) so với nhóm gây mê toàn thân (63,33 ± 21,15 phút).
scite is a Brooklyn-based organization that helps researchers better discover and understand research articles through Smart Citations–citations that display the context of the citation and describe whether the article provides supporting or contrasting evidence. scite is used by students and researchers from around the world and is funded in part by the National Science Foundation and the National Institute on Drug Abuse of the National Institutes of Health.
hi@scite.ai
10624 S. Eastern Ave., Ste. A-614
Henderson, NV 89052, USA
Copyright © 2024 scite LLC. All rights reserved.
Made with 💙 for researchers
Part of the Research Solutions Family.