Chất thải rắn xây dựng là một vấn đề môi trường đầy thách thức đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Ở nhiều nước trên thế giới, tiếp cận theo vòng đời trong quản lý chất thải rắn mang lại hiệu quả cao về kinh tế và môi trường khi gia tăng được lượng rác xây dựng tái chế, xóa bỏ nạn đổ trộm và chôn lấp hở. Tuy nhiên, cách tiếp cận quản lý theo vòng đời chất thải chưa được áp dụng tạiViệt Nam trong lĩnh vực quản lý chất thải rắn. Nghiên cứu xây dựng khung hệ thống quản lý chất thải rắn xây dựng bền vững cho tỉnh Quảng Ninh. Khảo sát phỏng vấn sâu các bên liên quan trong hệ thống quản lý chất thải rắn xây dựng được thực hiện làm cơ sở đánh giá hiệu quả của hệ thống hiện tại và đề xuất các giải pháp cải thiện hệ thống quản lý chất thải rắn xây dựng bền vững. Khung hệ thống quản lý chất thải rắn xây dựng tỉnh Quảng Ninh được xây dựng dựa trên tiếp cận vòng đời của chất thải rắn xây dựng và cách tham gia của các bên liên quan theo suốt vòng đời của chất thảinhằm hạn chế thất thoát chất thải ra môi trường và lãng phí tài nguyên.
Phế thải xây dựng (PTXD) đã và đang gây ra nhiều tác động tiêu cực đến kinh tế, xã hội và môi trường tại Việt Nam. Tái chế PTXD đang được xem là giải pháp hiệu quả để giải quyết những vấn đề này. Bài báo này đánh giá hiệu quả của dự án tái chế PTXD được đề xuất đầu tư tại Hà Nội bằng phương pháp phân tích chi phí - lợi ích. Các lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường từ dự án sẽ được thảo luận dựa trên giá trị tiền tệ. Kết quả nghiên cứu cho thấy dự án hoàn toàn khả thi về mặt tài chính mặc dù giá trị các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả còn khá thấp. Trong khi đó, hiệu quả kinh tế xã hội là rất lớn, với giá trị hiện tại của lợi ích ròng gấp khoảng từ 2,2 đến 2,5 lần tùy thuộc vào phân tích tài chính theo quan điểm vốn chủ sở hữu hay vốn chung; và suất thu lợi nội tại đạt đến 28,73%. Mức độ rủi ro của dự án là rất thấp. Sự hỗ trợ từ Chính phủ sẽ là yếu tố quyết định giúp nâng cao hiệu quả và thúc đẩy hoạt động đầu tư cho dự án tái chế PTXD tại Việt Nam. Từ khóa: phế thải xây dựng (PTXD); cốt liệu tái chế (CLTC); phân tích chi phí - lợi ích; phân tích tài chính; phân tích kinh tế - xã hội.
Tương tự như chất kết dính thạch cao được chế tạo từ đá thạch cao tự nhiên, chất kết dính thạch cao phospho (PGB) được chế tạo từ thạch cao phospho (Phosphogypsum-PG) có nhược điểm lớn là không bền nước và có cường độ thấp. Thành phần của PG chủ yếu chứa canxi sunphat dihydrat (CaSO4.2H2O) với hàm lượng có thể lớn hơn 75%, đồng thời chứa hàm lượng tạp chất nhất định (từ 2÷6%). Các tạp chất thường là hợp chất chứa Flo, P2O5, axit dư. Bài báo này trình bày một số kết quả nghiên cứu sử dụng thạch cao PG tại Đình Vũ kết hợp với xi măng poóc lăng, meta cao lanh và phụ gia siêu dẻo để chế tạo chất kết dính thạch cao hỗn hợp có khả năng chịu nước, cường độ cao. Mẫu thạch cao chế tạo có cường độ nén đạt 33,16 MPa, hệ số hoá mềm đạt 0,9.
Nghiên cứu này đánh giá việc sử dụng hai loại tro bay nhiệt điện sử dụng công nghệ đốt tầng sôi tuần hoàn (CFB) và đốt than phun (PC), với hàm lượng cao 40, 50, 60 và 70% thay thế xi măng đến cường độ và tính thấm của bê tông cường độ cao (BCĐC). Kết quả nghiên cứu cho thấy cường độ nén của bê tông sử dụng tro bay cao (HVFAC) thấp hơn cường độ nén của bê tông đối chứng ở tuổi ngắn ngày. Tuy nhiên nhờ vào phản ứng puzơlan, cường độ nén của bê tông sử dụng tro bay đã dần được cải thiện ở tuổi dài ngày (sau 90 ngày). Thậm chí mẫu bê tông sử dụng 40 và 50% tro bay PC còn có cường độ nén đạt cao hơn 9,1% và 12,3% so với cường độ nén của mẫu bê tông đối chứng khi ở tuổi 365 ngày. Việc sử dụng 40-60% tro bay thay thế xi măng cũng đã làm giảm thể tích lỗ rỗng thấm nước, độ hút nước mao quản và độ thấm ionclo trong bê tông ở tuổi dài ngày. Các giá trị này giảm mạnh đối với bê tông sử dụng tro bay PC, nhưng giảm nhẹ đối với bê tông sử dụng tro bay CFB khi bảo dưỡng trong khoảng 28-365 ngày.
Trong bài báo này, việc sử dụng cát nghiền nhân tạo nguồn gốc đá vôi được nghiên cứu thay thế cát tự nhiên trong sản xuất bê tông cấp độ bền chịu nén B20. Với mục đích đánh giá khả năng thích ứng của bê tông sử dụng cát nghiền nhân tạo với hệ thống tiêu chuẩn thiết kế kết cấu BTCT của Việt Nam, nghiên cứu thực nghiệm được phân tích dựa trên các thí nghiệm bao gồm: (i) nén mẫu lập phương xác định cường độ chịu nén, (ii) nén mẫu trụ xác định mô đun đàn hồi, (iii) kéo tuột (Pull-out test) xác định lực dính cốt thép-bê tông, (iv) nén mẫu cột kích thước 20 × 20 × 100 cm đến phá hoại. Kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy sự mất ổn định về cường độ chịu nén của bê tông sử dụng cát nghiền nhân tạo ở hai mức độ: (i) mức độ đạt cường độ nén mẫu và (ii) mức độ giảm mạnh cường độ nén của bê tông khi chuyển từ mẫu nén lập phương 15 × 15 × 15 cm sang mẫu cấu kiện cột BTCT chịu nén kích thước 20 × 20 × 100 cm.
scite is a Brooklyn-based organization that helps researchers better discover and understand research articles through Smart Citations–citations that display the context of the citation and describe whether the article provides supporting or contrasting evidence. scite is used by students and researchers from around the world and is funded in part by the National Science Foundation and the National Institute on Drug Abuse of the National Institutes of Health.
hi@scite.ai
10624 S. Eastern Ave., Ste. A-614
Henderson, NV 89052, USA
Copyright © 2024 scite LLC. All rights reserved.
Made with 💙 for researchers
Part of the Research Solutions Family.