Multiple Criteria Decision Analysis (MCDA) is increasingly used in health care mainly because it moves decision-making from ad hoc to an evidence-based and comprehensive process. Developing countries with more restricted financial and human research capacities, however, should consider their own methods of MCDA development and implementation. Areas covered: An MCDA framework to improve procurement decisions of off-patent pharmaceuticals was developed for developing countries and adapted to Indonesia, Kazakhstan and Vietnam during three policy workshops. Based on the experience of these workshops and one joint workshop with international experts and decision makers from multiple developing countries, general recommendations were formulated on how to implement MCDA specifically in developing countries. We provide 17 practical MCDA implementation recommendations in four major areas, including (1) MCDA objectives; (2) technical considerations of MCDA tool; (3) development and customization of MCDA tool and (4) policy implementation of MCDA in decision-making. Expert commentary: These practical MCDA recommendations for developing countries contribute to feasible, transparent, stepwise, iterative and standardized decision-making in health care.
HighlightsVietnam's EPI has caused sharp decreases in vaccine-preventable disease incidence.EPI may have saved over 370,000 lives.EPI represents good value for money.
BackgroundSocial health insurance administrative databases were established in Indonesia, Vietnam and the Philippines in 2014, 2017 and 2012, respectively; however, these databases have been scarcely used for research, if at all. This study explored the feasibility and accessibility of using these databases for scientific research, highlighting challenges and barriers in their use.MethodologyThe databases included in this evaluation comprised the Jaminan Kesehatan Nasional (JKN) from Indonesia, Vietnam Health Insurance Scheme (VHIS) from Vietnam and PhilHealth from the Philippines. These databases were qualitatively assessed based on the data capture, potential linkage to other databases or registries, data access and extraction, privacy and security, and quality and validation procedures.ResultsAll databases contain population-based cohort data on the medical costs of reimbursed medical conditions, identified using International Classification of Diseases, Tenth Revision (ICD-10) codes. Linkage to other national databases, ensuring protection of patient privacy data, would improve their usability. Duration to database access and data extraction varies from country to country. The main limitations of all databases include the short span of data records, and the unknown degree of internal validity. Both JKN and PhilHealth databases capture bundled claims, inherently excluding information on prescriptions and out-of-pocket expenditure. Due to the recent establishment of the VHIS database, it may not be suitable for studies that intend to explore trends.ConclusionThe JKN, VHIS and PhilHealth databases offer population-based, financial, utilization, and demographic data, which could provide valuable epidemiological and pharmacoeconomic insights if the findings are interpreted within the limitations of each database.Electronic supplementary materialThe online version of this article (10.1007/s41669-019-0127-2) contains supplementary material, which is available to authorized users.
Mục tiêu: Phân tích chi phí-hiệu quả của Budesonide/Formoterol khi cần so với Corticosteroid dạng hít (ICS) liều thấp hàng ngày phối hợp với thuốc đồng vận beta giao cảm tác dụng ngắn (SABA) khi cần ở người bệnh hen phế quản (HPQ) nhẹ tại Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu: Mô hình hóa sử dụng mô hình Markov gồm ba trạng thái chính: không có đợt cấp HPQ, đợt cấp HPQ nặng, và tử vong. Nghiên cứu được thực hiện dưới quan điểm của cơ quan chi trả, khung thời gian chạy mô hình là toàn thời gian sống với chu kỳ của mô hình là một tuần. Hiệu quả lâm sàng được trích xuất từ nghiên cứu SYGMA 2 và các thông số về chi phí được dựa trên một nghiên cứu gánh nặng bệnh tật tại Việt Nam và cơ sở dữ liệu của Cục Quản lý Dược. Kết quả mô hình được biểu thị dưới dạng chỉ số chi phí-hiệu quả tăng thêm (ICER), kết quả phân tích độ nhạy một chiều và phân tích độ nhạy xác suất. Kết quả: Budesonide/Formoterol khi cần vượt trội so với phác đồ so sánh, giúp tránh được 0,44 đợt cấp HPQ, tiết kiệm 2.632.464 VNĐ chi phí điều trị và tăng 0,0006 QALYs về mặt hiệu quả. Kết quả phân tích độ nhạy một chiều và độ nhạy xác suất đều khẳng định trong đa số trường hợp phân tích, Budesonide/Formoterol khi cần đều đạt chi phí-hiệu quả. Kết luận: Từ quan điểm của cơ quan chi trả, Budesonide/Formoterol khi cần tiết kiệm chi phí và tăng hiệu quả so với phác đồ ICS liều thấp phối hợp SABA khi cần về tính chi phí-hiệu quả tại Việt Nam.
Mục tiêu: 1) Xác định tỷ lệ thừa cân (TC), béo phì (BP) ở học sinh lớp 5 trường tiểu học Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 2021. 2) Mô tả kiến thức về TC, BP ở học sinh lớp 5 trường tiểu học Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương năm 2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Học sinh lớp 5 tại trường tiểu học Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương; nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Chỉ số BMI trung bình của trẻ nam và trẻ nữ lần lượt là 19,0 ± 4,7 kg/m2 và 19,2 ± 3,9 kg/m2, tỷ lệ trẻ bị thừa cân, béo phì là 27,2%. Tỷ lệ trẻ có kiến thức về khái niệm thừa cân, béo phì tốt đạt là 59,6%, tỷ lệ trẻ có kiến thức về nguyên nhân thừa cân, béo phì tốt đạt là 57,2%, tỷ lệ trẻ có kiến thức về tác hại của thừa cân, béo phì tốt đạt là 58,0%, tỷ lệ trẻ có kiến thức về cách phòng chống thừa cân, béo phì tốt đạt là 57,6%. Kết luận: Nguy cơ thừa cân, béo phì tăng gấp 9,5 lần (95%CI: 4,73-19,03) ở trẻ có kiến thức chung về thừa cân, béo phì chưa tốt. Việc giáo dục cho trẻ có được kiến thức cơ bản tốt để có được nhận thức và hành vi đúng đắn nhằm mục đích phòng chống thừa cân, béo phì là vô cùng cần thiết.
Mục tiêu: Mô tả chi phí điều trị trực tiếp cho y tế và các yếu tố liên quan trong điều trị trẻ sơ sinh mắc chứng loạn sản phế quản phổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương trong năm 2020. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, phân tích định lượng dữ liệu hồi cứu của tất cả trẻ sơ sinh điều trị chứng loạn sản phế quản phổi tại Bệnh viện trong 2020. Kết quả: Trong tổng 116 đối tượng nghiên cứu, nam là chủ yếu với 63,8%, tỷ lệ trẻ đẻ non <28 tuần là 59,8%. Tổng chi phí trực tiếp cho y tế trung bình năm/1 trẻ là 3292,5 ± 3043,8 USD. Chi phí này tỷ lệ thuận với cân nặng khi sinh và thời gian nằm viện. Kết luận: Chi phí ở Việt Nam thấp hơn đáng kể so với chi phí quốc tế ở các nghiên cứu tương tự. Chính sách bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ < 6 tuổi và tỷ lệ đồng chi trả < 20% làm giảm đáng kể gánh nặng kinh tế của gia đình có trẻ phải điều trị chứng loạn sản phế quản phổi và hoàn toàn nằm trong khả năng chi trả.
Mục tiêu: Liệu pháp nhắm trúng đích trong điều trị UTPKTBN sẽ kéo dài thời gian sống của người bệnh hơn so với hóa trị liệu nhưng chi phí (CP) lại khá cao. Do vậy, trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ tìm ra bằng chứng về chi phí hiệu qủa (CPHQ) của các liệu pháp nhắm trúng đích so với hóa trị liệu nhằm đưa ra khuyến nghị trong việc lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp. Phương pháp nghiên cứu: Tiến hành tổng quan tài liệu một các có hệ thống để đánh giá CPHQ của liệu pháp nhắm trúng đích trong điều trị UTPKTBN dựa trên các cơ sở dữ liệu Pubmed, Embase, Cochrane,… từ năm 2000 đến tháng 8 năm 2021. Đánh giá chất lượng của các nghiên cứu Kinh tế Y tế bằng bảng kiểm CHEERS. Kết quả: Sáu trong 128 kết quả đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chí theo bảng kiểm CHEERS và được đưa vào nghiên cứu. ICER của erlotinib, afatinib và osimertinib lần lượt là 85.927,4 $/QALY, 20.758–33.416,39$/QALY và 23.760,1– 51.615,1$/QALY so với các liệu pháp hóa trị liệu. Kết luận: Erlotinib và afatinib là phác đồ bước một và osimertinib là phác đồ bước sau có CPHQ cao hơn so với hóa trị. Giảm giá thuốc điều trị nhắm trúng đích thấp hơn so với ngưỡng chi trả của từng nước là yếu tố thuận lợi để người bệnh UTPKTBN có khả năng tiếp cận và gia tăng CPHQ.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang có phân tích trên 250 người bệnh ngoại trú đến khám chữa bệnh tại Khoa khám bệnh, Bệnh viện Bưu điện cơ sở 1 năm 2020 nhằm mô tả sự hài lòng của người bệnh ngoại trú và một số yếu tố liên quan. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ hài lòng chung của người bệnh ngoại trú về chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại Khoa khám bệnh là 80,4%. Trong đó, tỷ lệ người bệnh hài lòng về công tác chăm sóc của điều dưỡng là 84,4%; tỷ lệ người bệnh hài lòng về công tác khám bệnh của bác sỹ là 83,6%; tỷ lệ người bệnh hài lòng về thủ tục hành chính và khả năng tiếp cận là 78,0%; tỷ lệ người bệnh hài lòng về cơ sở vật chất, an ninh trật tự là 75,6%. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng người bệnh dưới 60 tuổi có khả năng cảm thấy hài lòng cao hơn gấp gần 21 lần so với người bệnh trên 60 tuổi (OR=20,625; p<0,05) và người bệnh đến khám từ lần thứ hai trở lên có khả năng cảm thấy hài lòng cao hơn gấp 3 lần so với người bệnh đến khám lần đầu (OR=3,450; p<0,05).
scite is a Brooklyn-based organization that helps researchers better discover and understand research articles through Smart Citations–citations that display the context of the citation and describe whether the article provides supporting or contrasting evidence. scite is used by students and researchers from around the world and is funded in part by the National Science Foundation and the National Institute on Drug Abuse of the National Institutes of Health.
hi@scite.ai
10624 S. Eastern Ave., Ste. A-614
Henderson, NV 89052, USA
Copyright © 2024 scite LLC. All rights reserved.
Made with 💙 for researchers
Part of the Research Solutions Family.