Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 96 bệnh nhân thalassemia tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2021. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu xác định mối liên quan giữa một số đặc điểm bệnh với kết quả xét nghiệm đông cầm máu của bệnh nhân thalassemia. Kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng tiểu cầu trung bình là 408,31 ± 244,50 (103/ml); thời gian prothrombin trung bình là 15,15 ± 1,55 (giây); thời gian hoạt hóa thromboplastin trung bình là 38,70 ± 6,86 (giây) và nồng độ fibrinogen là 2,70 ± 0,73 (g/l). Kết quả nghiên cứu thấy có mối liên quan giữa tình trạng có huyết khối, nghiệm pháp Coombs trực tiếp (+) và tình trạng lách với số lượng tiểu cầu (p<0,05). Tình trạng lách, gan của bệnh nhân có liên quan với thời gian prothrombin (p<0,05). Nghiệm pháp Coombs trực tiếp (+), tình trạng lách và tình trạng gan của bệnh nhân có liên quan với tỉ lệ phần trăm phức hệ prothrombin (p<0,05). Tình trạng gan của bệnh nhân có liên quan với thời gian hoạt hóa thromboplastin (giây), tỉ số thời gian hoạt hóa thromboplastin (bệnh/chứng) (p<0,05) và fibrinogen (p<0,05). Nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa tình trạng lách và gan của bệnh nhân thalassemia với kết quả xét nghiệm đông cầm máu.
Lan Đai châu là loài lan bản địa quý của Việt Nam có nguy cơ tuyệt chủng do mất môi trường sống thích hợp và sự khai thác quá mức của con người. Quy trình vi nhân thông qua phát sinh protocorm từ mô sẹo đã được xây dựng thành công để bảo tồn và phát triển nguồn gen loài lan này. Môi trường nuôi cấy bổ sung các chất điều hòa sinh trưởng BAP, NAA và dịch chiết khoai tây, chuối tiêu đến sự tạo protocorm, nhân sinh khối và tái sinh chồi đã được khảo sát. Môi trường MS bổ sung BAP 2,0 mg/l phù hợp cho tạo protocorm từ mô sẹo, tỉ lệ đạt 100%. Môi trường nhân protocorm phù hợp nhất là môi trường VW bổ sung BAP 1,0 mg/l, NAA 0,5 mg/l, nước dừa 100 ml/l, khoai tây 40 g/l, chuối tiêu 30 g/l cho sinh khối protocorm tăng 4,66 lần so với ban đầu. Môi trường VW bổ sung nước dừa 100 ml/l, khoai tây 40 g/l, chuối tiêu 30 g/l cho hiệu quả nhân sinh khối PLBs tăng 17,9 lần so với ban đầu và tái sinh chồi tốt nhất. Môi trường VW bổ sung NAA 1,0 mg/l, chuối tiêu 50 g/l phù hợp nhất cho ra rễ của chồi với số rễ đạt 4,0 rễ/chồi, chiều dài rễ đạt 2,33 cm. Quy trình vi nhân giống này có thể ứng dụng để sản xuất cây giống Đai châu với quy mô lớn.
Bệnh ấu trùng sán lợn (ATSL) là bệnh ký sinh trùng với biểu hiện lâm sàng đa dạng, khó chẩn đoán. Mục tiêu: nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trên các bệnh nhân (BN) mắc ATSL. Phương pháp: thu thập thông tin của 120 BN ATSL điều trị tại viện Sốt rét ký sinh trùng và côn trùng trung ương trong thời gian 2017 - 2020 Kết quả: tuổi trung bình 51,23 ± 11,59 tuổi, nhóm tuổi hay gặp nhất là 41-50 tuổi (30,8%) và 51 – 60 tuổi (34,2%). Nam giới chiếm tỷ lệ chủ yếu (80%), nữ chiếm 20%. Triệu chứng thường gặp nhất là đau đầu (88,3%), co giật (60,0%), ngoài ra còn gặp các biểu hiện khác như ngất, giảm trí nhớ, tê tay chân... Có 5% tiền sử đi ngoài ra đốt sán, 2,5% có nang sán dưới da. Đa số bệnh nhân có thời gian mắc bệnh kéo dài, từ 2 năm trở lên chiếm 49,2%. Có 37,5% bệnh nhân có tăng bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi, mức độ tăng thấp, tỷ lệ bạch cầu ái toan trung bình là 4,56%. Trên phim chụp cộng hưởng từ não nang sán tập trung chủ yếu ở vùng bán cầu (69,2% BN), vỏ, dưới vỏ (50%), những vị trí khác ít gặp.
Hai loại thuốc được khuyên dùng để điều trị bệnh nang sán (ATSL) là albendazole và praziquantel, tuy nhiên, có rất ít nghiên cứu so sánh hai loại thuốc này trong điều trị Việt Nam. Mục tiêu: So sánh hiệu quả và độ an toàn của albendazole và praziquantel trong điều trị ATSL. Phương pháp: 120 bệnh nhân ATSL có đặc điểm lâm sàng tương tự được nhóm lại để điều trị bằng albendazole hoặc praziquantel theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Đánh giá được thực hiện 6 tháng sau khi điều trị. Kết quả: Khỏi bệnh và cải thiện về mặt lâm sàng tỷ lệ là 61,7% và 38,3%. Trên MRI, tỷ lệ chữa khỏi hoàn toàn, một phần và không hiệu quả lần lượt là 65%, 30,8% và 4,2%. Việc điều trị đạt được một chữa bệnh là 51,7%, tỷ lệ cải thiện là 44,2% và tỷ lệ không hiệu quả là 4,2%. Praziquantel hiệu quả hơn albendazole trên lâm sàng, chụp cộng hưởng từ và kết quả cuối cùng. Các bệnh nhân được nghiên cứu không có biểu hiện bất thường về nồng độ urê hoặc creatinine. Các bệnh nhân dùng praziquantel đã tăng GPT bất thường chỉ sau liệu trình thứ ba. Những bệnh nhân dùng albendazole có một tăng men gan sau tất cả các đợt điều trị. Tỷ lệ men gan độ cao ở nhóm albendazole cao hơn so với nhóm praziquantel. Kết luận: praziquantel hiệu quả và an toàn hơn albendazole trong điều trị điều trị ATSL.
Albendazole là một trong những loại thuốc được chỉ định điều trị bệnh ấu trùng sán lợn, tuy nhiên, dữ liệu về hiệu quả và độ an toàn của thuốc này ở Việt Nam còn rất ít. Mục tiêu: Nghiên cứu hiệu quả và tính an toàn của albendazole dùng trong điều trị điều trị bệnh nang sán. Phương pháp: bệnh nhân mắc bệnh ấu trùng sán lợn được điều trị bằng albendazole theo phác đồ chế độ do Bộ Y tế ban hành và được đánh giá sau mỗi tập và 6 vài tháng sau. Kết quả: Nghiên cứu này bao gồm 60 bệnh nhân với độ tuổi trung bình là 50,17 ±10,03 tuổi và đa số là nam giới (90,0%). Các triệu chứng phổ biến nhất là đau đầu (90,0%), co giật (68%) sau đó là các triệu chứng khác như ngất xỉu, giảm trí nhớ, tê bì chân tay... Tỷ lệ khỏi hoàn toàn và khỏi một phần về mặt lâm sàng là 48,3% và 51,7%. Tỷ lệ khỏi hoàn toàn, một phần hoặc không hết nang não là 43,3%; 51,7% và 5,0%. Tỷ lệ kết quả điều trị chung là khỏi bệnh 33,3%, 61,7% cải thiện và 5% không. Nhìn chung, 33,3% bệnh nhân được coi là một độ phân giải hoàn chỉnh, 61,7% là độ phân giải một phần và 5% là lỗi. Các vị trí của u nang (vỏ não/dưới vỏ não hoặc bán cầu não) không ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Theo dõi lâm sàng bệnh nhân không nhận thấy bất kỳ tác dụng phụ nào sau khi điều trị. Có sự gia tăng tỷ lệ men gan tăng cao nhưng không có bất thường về urê máu và creatinine đã được báo cáo.
Bệnh ấu trùng sán lợn là bệnh ký sinh trùng với biểu hiện lâm sàng đa dạng, phức tạp, bệnh cóthể ảnh hưởng đến nhiêu cơ quan trong cơ thể đặc biệt là ở hệ thần kinh trung ương. Mục tiêu:nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trên các bệnh nhân mắc ấu trùng sán lợn. Phươngpháp: thu thập thông tin của 120 bệnh nhân ấu trùng sán lợn điều trị tại viện Sốt rét ký sinh trùng vàcôn trùng trung ương trong thời gian 2017 - 2020. Tuổi trung bình 51,2 11,6 tuổi, nhóm tuổi haygặp nhất là 41-50 tuổi (30,8%) và 51 - 60 tuổi (34,2%). Nam giới chiếm tỷ lệ chủ yếu (80%), nữchiếm 20%. Triệu chứng thường gặp nhất là đau đầu (88,3%), co giật (60,0%), máy giật cơ (58,3%).Ngoài ra còn gặp các biểu hiện khác như ngất, giảm trí nhớ, tê tay chân... Có 5% tiền sử đi ngoài rađốt sán, 2,5% có nang sán dưới da. Đa số bệnh nhân có thời gian mắc bệnh kéo dài, từ 2 năm trở lênchiếm 49,2%. Có 15% bệnh nhân có tăng bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi, mức độ tăng thấp, tỷlệ bạch cầu ái toan trung bình là 5,1%. Đa số bệnh nhân không có thiếu máu (98,3%); định lượngcreatinin và ure trong giới hạn bình thường. Có 19,2% bệnh nhân có tăng SGOT và 22,5% tăngSGPT, nhưng đa số tăng ở mức độ 1.
Bệnh ấu trùng sán lợn là bệnh ký sinh trùng với biểu hiện lâm sàng đa dạng, phức tạp,bệnh có thể ảnh hưởng đến nhiêu cơ quan trong cơ thể đặc biệt là ở hệ thần kinh trung ương.Mục tiêu: nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trên các bệnh nhân mắc ấu trùng sánlợn. Phương pháp: thu thập thông tin của 120 bệnh nhân ấu trùng sán lợn điều trị tại việnSốt rét ký sinh trùng và côn trùng trung ương trong thời gian 2017 - 2020. Tuổi trung bình51,2 11,6 tuổi, nhóm tuổi hay gặp nhất là 41-50 tuổi (30,8%) và 51 - 60 tuổi (34,2%). Namgiới chiếm tỷ lệ chủ yếu (80%), nữ chiếm 20%. Triệu chứng thường gặp nhất là đau đầu(88,3%), co giật (60,0%), máy giật cơ (58,3%). Ngoài ra còn gặp các biểu hiện khác nhưngất, giảm trí nhớ, tê tay chân... Có 5% tiền sử đi ngoài ra đốt sán, 2,5% có nang sán dướida. Đa số bệnh nhân có thời gian mắc bệnh kéo dài, từ 2 năm trở lên chiếm 49,2%. Có 15%bệnh nhân có tăng bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi, mức độ tăng thấp, tỷ lệ bạch cầu áitoan trung bình là 5,1%. Đa số bệnh nhân không có thiếu máu (98,3%); định lượng creatininvà ure trong giới hạn bình thường. Có 19,2% bệnh nhân có tăng SGOT và 22,5% tăng SGPT,nhưng đa số tăng ở mức độ 1.
Một nghiên cứu so sánh hiệu quả điều trị và tính an toàn của 2 loại thuốc albendazolevà praziquantel trên bệnh nhân Ấu trùng sán lợn (ATSL) đã được tiến hành từ tháng 1 năm2017 đến tháng 12 năm 2020 tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương. 120bệnh nhân ATSL với đặc điểm lâm sàng tương tự nhau được phân nhóm điều trị bằngalbendazole hay praziquantel theo hướng dẫn của Bộ Y tế [1], đánh giá kết quả điều trị sau 6tháng. Kết quả đánh giá trên lâm sàng cho thấy 61,7% bệnh nhân được điều trị khỏi bệnh,38,3% giảm triệu chứng. Trên hình ảnh MRI 65% bệnh nhân hết nang sán, 30,8% giảm nangvà 4,2% không giảm. Kết quả điều trị cuối cùng cho thấy khỏi 51,7%, đỡ 44,1%, không khỏi4,2%. Praziquantel có hiệu quả cao hơn albendazole cả trên lâm sàng, MRI và kết quả điềutrị cuối cùng. Bệnh nhân nghiên cứu không thấy tăng tỷ lệ bất thường ure và creatinin. Nhómbệnh nhân dùng praziquantel chỉ thấy tăng tỷ lệ bất thường GPT sau đợt ba. Nhóm bệnhnhân dùng albendazole thấy tăng enzyme gan sau tất cả các đợt điều trị. Tỷ lệ tăng enzymegan ở nhóm dùng albendazole cao hơn nhóm dùng praziquantel. Kết luận: praziquantel cóhiệu quả cao hơn và an toàn hơn albendazole trong điều trị bệnh ATSL.
scite is a Brooklyn-based organization that helps researchers better discover and understand research articles through Smart Citations–citations that display the context of the citation and describe whether the article provides supporting or contrasting evidence. scite is used by students and researchers from around the world and is funded in part by the National Science Foundation and the National Institute on Drug Abuse of the National Institutes of Health.
hi@scite.ai
10624 S. Eastern Ave., Ste. A-614
Henderson, NV 89052, USA
Copyright © 2024 scite LLC. All rights reserved.
Made with 💙 for researchers
Part of the Research Solutions Family.