Đặt vấn đề: Tăng huyết áp là một trong tám nguyên nhân hàng đầu gây tàn tật và tử vong toàn cầu. Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới, hàng năm có 9,4 triệu người tử vong do tăng huyết áp. Tăng huyết áp có thể chẩn đoán và khống chế nếu được phát hiện sớm tại bệnh viện, phòng khám và ngay tại nhà. Mục tiêu: Khảo sát nhận thức, thái độ về việc áp dụng phương pháp đo huyết áp tại nhà của nhân viên y tế tại một số bệnh viện, phòng khám tại Thừa Thiên Huế và đánh giá nhận thức về kỹ năng đo huyết áp tại nhà theo các khuyến cáo trong và ngoài nước. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu trên 154 bác sĩ tham gia khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế tại Thừa Thiên Huế từ tháng 5/2020 – 5/2021. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Phần lớn các bác sĩ nhận thấy việc đo huyết áp tại nhà giúp quản lý bệnh nhân tăng huyết áp (92,2%), giúp chẩn đoán tăng huyết áp áo choàng trắng (87%), tăng huyết áp ẩn giấu (78,6%) và đánh giá hiệu quả của các loại thuốc hạ huyết áp (79,9%). Có 83,8% bác sĩ khuyến nghị sử dụng máy huyết áp điện tử, trong đó 93,5% chọn máy huyết áp điện tử cánh tay. Xấp xĩ 50% bác sĩ thường xuyên kiểm tra độ chính xác của các thiết bị. Chỉ có 13,6% các bác sĩ trả lời đúng toàn bộ điều kiện đo huyết áp tại nhà buổi sáng theo khuyến cáo, 48,1% bác sĩ trả lời đúng thời điểm nên đo huyết áp tại nhà vào buổi tối. Có sự liên quan giữa các nhóm tuổi với kiến thức về điều kiện đo huyết áp tại nhà, với việc ghi nhận và đánh giá các kết quả thu được và quy trình theo dõi huyết áp tại nhà. Kết luận: Đa số các bác sĩ đều quan tâm và nhận thức được tầm quan trọng của theo dõi huyết áp tại nhà trong quản lý, điều trị tăng huyết áp, tuy nhiên phần lớn kiến thức của bác sĩ về phương pháp này chưa đúng theo khuyến cáo. Từ khóa: Tăng huyết áp, bác sĩ, kỹ năng.
Nhồi máu cơ tim cấp (NMCTC) là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở nhiều quốc gia và tình trạng suy tim sau nhồi máu cơ tim (NMCT) là gánh nặng y tế cho gia đình lẫn xã hội. Do đó, việc tiên lượng sau NMCT là rất cần thiết vì nó ảnh hưởng đến việc lựa chọn điều trị cũng như theo dõi sau đó và các dấu ấn sinh học đóng vai trò rất quan trọng trong dự hậu. Phần tổng quan này sẽ giới thiệu về periostin – 1 dấu ấn sinh học tương đối mới liên quan đến quá trình xơ hóa cơ tim, giúp tiên lượng dự hậu sau NMCTC. Nồng độ periostin tăng vọt sau NMCT, tác động đến quá trình tái cấu trúc tim sau đó gây xơ hóa cơ tim mạn tính. Trong giai đoạn sớm của NMCTC, periostin làm giảm nguy cơ tử vong do biến chứng thủng vách liên thất hay vỡ thành thất trái. Tuy nhiên, về lâu dài thì nó lại gây suy tim do làm tăng xơ hóa tim. Một số nghiên cứu quy mô còn khiêm tốn cho thấy periostin giúp tiên lượng diễn tiến bệnh sau NMCTC. Do vậy, cần có thêm nhiều nghiên cứu về hiệu quả của periostin trong dự đoán chức năng tim sau NMCT trước khi có thể áp dụng rộng rãi trên lâm sàng. Từ khóa: NMCT: nhồi máu cơ tim, NMCTC: nhồi máu cơ tim cấp.
Đặt vấn đề: Các hướng dẫn về kiểm soát và điều trị tăng huyết áp (THA) hiện nay đều khuyến cáo mức huyết áp dựa trên chỉ số huyết áp đo được tại phòng khám (OBP). Có nhiều bằng chứng cho thấy rằng theo dõi huyết áp lưu động (ABPM) là một yếu tố dự báo tốt hơn về các sự kiện tim mạch lớn so với các phương pháp đo huyết áp tại các phòng khám. Đánh giá độ cứng mạch thông qua vận tốc sóng mạch gần đây đã được khuyến nghị trong các hướng dẫn về tăng huyết áp. Mục tiêu: 1. Đánh giá chỉ số cứng mạch, trị số huyết áp đo phòng khám và huyết áp lưu động 24 giờ ở bệnh nhân tăng huyết áp. 2. Phân tích mối tương quan giữa chỉ số huyết áp đo tại phòng khám và huyết áp lưu động 24 giờ với vận tốc sóng mạch. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gồm 99 bệnh nhân điều trị tại phòng khám ngoại trú khoa Nội Tim mạch 2, bệnh viện Nguyễn Trãi, TP. Hồ Chí Minh được chẩn đoán THA từ tháng 2/2019 đến tháng 2/2020. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Giá trị trung bình vận tốc sóng mạch (baPWV) trong nhóm NC là 1459,39 cm/s Huyết áp phòng khám có giá trị thấp hơn huyết áp lưu động 24 giờ. Có sự khác biệt huyết áp đo được tại phòng khám và huyết áp lưu động 24 giờ, (50% chưa được kiểm soát tốt HA, 50% có hiện tượng vọt HA sáng sớm). Tuổi có mối tương quan mức độ khá chặt với vận tốc sóng mạch baPWV (r = 0 ,54, p < 0,05), OBP có tương quan mức độ vừa với vận tốc sóng mạch baPWV (r = 0,439, p < 0,01); ABPM có tương quan mức độ khá chặt với vận tốc sóng mạch baPWV (r>0,5, p<0,01). Vận tốc sóng mạch baPWV tăng theo phân độ THA. THA chưa kiểm soát và THA chưa kiểm soát ẩn giấu, THA buổi sáng có vận tốc sóng mạch cao hơn có ý nghĩa thống kê so với các nhóm HA bình thường và hiện tượng áo choàng trắng (p<0,01). Từ khóa: Tăng huyết áp, huyết áp lưu động 24h, độ cứng mạch.
Đặt vấn đề: Thiếu hụt vitamin D hiện nay là vấn đề sức khỏe toàn cầu không chỉ ảnh hưởng đến bệnh lý cơ xương (còi xương, gãy xương, loãng xương và yếu cơ). Ngoài ra còn làm tăng nguy cơ mắc nhiều các bệnh lý cấp tính và mạn tính trong đó có Tăng huyết áp và Bệnh mạch vành. Mục tiêu: 1. Khảo sát nồng độ 25-hydroxy vitamin D huyết thanh ở bệnh nhân tăng huyết áp có bệnh động mạch vành và so sánh với nồng độ 25-hydroxy vitamin D huyết thanh của người bình thường. 2. Xác định mối liên quan giữa 25-hydroxy vitamin D huyết thanh với các yếu tố như: giới, tuổi, BMI, nồng độ lipid máu, huyết học, siêu âm tim, điện tâm đồ, phân độ THA và tổn thương động mạch vành ở bệnh nhân tăng huyết áp có bệnh động mạch vành. Đối tượng và phương pháp: 33 bệnh nhân nhập viện tại khoa tim mạch bệnh viện Nguyễn Trãi được chẩn đoán tăng huyết áp có hẹp động mạch vành và có xét nghiệm nồng độ 25-hydroxy vitamin D huyết thanh < 30 ng/ml, so sánh với nhóm chứng, phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Nhóm bệnh nhân 25(OH)D<30 ng/mL chiếm 81,8% và nhóm 25(OH)D ≥ 30 ng/mL là 18,2%. Nồng độ trung bình 25(OH)D là 25,25 ± 8,17 ng/mL. Có sự khác biệt về nồng độ 25(OH)D theo giới, theo tuổi và theo phân nhóm THA. Điểm cắt của 25(OH)D là 27,95 ng/ ml trong tiên lượng Hẹp nặng 70% của nhánh RCA (p<0,05). Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa số lượng ĐMV tổn thương với nồng độ 25 (OH)D (p>0,05). Chỉ số Gensini tương quan nghịch với nồng độ 25(OH)D huyết thanh (p>0,05). Kết luận: Bệnh nhân Tăng huyết áp có bệnh mạch vành phần lớn có nồng độ 25(OH)D giảm. Có sự liên quan giữa 25(OH)D huyết thanh với phân độ THA. Không có sự khác biệt giữa số lượng động mạch vành tổn thương và nồng độ 25(OH) D huyết thanh. Từ khóa: 25(OH)D, tăng huyết áp, bệnh mạch vành.
Mục đích: Tăng huyết áp là một bệnh tim mạch thường gặp và trở thành mối quan tâm hàng đầu của nền y học thế giới. Tỷ lệ tăng huyết áp trên toàn cầu ngày càng gia tăng. Nồng độ Aldosterone/renin là một xét nghiệm quan trọng giúp chẩn đoán và định hướng điều trị THA, đặc biệt là những trường hợp THA kháng trị. Mục đích của nghiên cứu là xác định nồng độ Renin huyết thanh, nồng độ Aldosterone huyết thanh và tỷ Aldosterone/Renin ở bệnh nhân THA; và khảo sát mối liên quan, mối tương quan giữa nồng độ Aldosterone, Renin, tỷ Aldosterone/Renin huyết thanh với độ nặng của THA với một số yếu tố liên quan ở đối tượng nghiên cứu. Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 80 bệnh nhân được chẩn đoán tăng huyết áp, đến khám tại khoa khám bệnh, Bệnh viện Quận 6 TP. HCM từ tháng 2/2019 đến tháng 22/2020 từ độ tuổi 18 trở lên được định lượng renin huyết thanh, aldosterone huyết thanh và tỷ Aldosterone/Renin bằng phương pháp ELISA với kỹ thuật hấp phụ miễn dịch gắn enzym trên máy miễn dịch tự động. Dựa vào các kết quả định lượng, đưa ra phân tích về mối liên quan, mối tương quan giữa tỷ Aldosterone/Renin huyết thanh với độ nặng của THA và một số yếu tố liên quan (tuổi và giới, HATT, HATr, BMI, chỉ số Sokolow Lyon, chỉ số ABI, hệ số thanh thải creatinine và nồng độ K+, Na+). Kết quả: Tỷ lệ THA độ I chiếm 40,0%; độ II là 38,8% và độ III 12,5%. Nồng độ Aldosterone chung là 8,42 ± 5,04 µIU/ml; nồng độ Aldosterone ở 2 nhóm tuổi (< 40 và ≥ 40 tuổi) tương đương nhau. Nồng độ Renin chung 34,07 ± 59,09 ng/dL; trung vị là 17,36. Tỷ Aldosterone/Renin là 1,36 ± 3,54 µIU/ ml/ng/dL; trung vị là 0,41. Tỷ Aldosterone/Renin tương quan thuận với tuổi, Ure, Kali (p<0,05), Creatinine (p<0,01) và tương quan nghịch với natri (p<0,05) và hệ số thanh thải creatinine (p<0,01). Tỷ Aldosterone/Renin không tương quan với Sokolov, BMI, ABI (p>0,05). Đường cong ROC của Aldosterone/Renin trong tiên lượng THA với điểm cắt (cut off) là 0,26; AUC = 0.842 (95%CI= 0,744-0,914); độ nhạy 74% (95%CI= 62,4-83,5) và độ đặc hiệu là 85,7% (95%CI= 42,1-99,6), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Kết luận: Định lượng tỷ Aldosterone/Renin mang lại lợi ích cho các đối tượng tăng huyết áp nghi ngờ kháng trị hoặc dự báo nguy cơ và sàng lọc tình trạng kháng Aldosterone. Từ khóa: Tỷ Aldosterone/Renin; tăng huyết áp; kháng Aldosterone.
scite is a Brooklyn-based organization that helps researchers better discover and understand research articles through Smart Citations–citations that display the context of the citation and describe whether the article provides supporting or contrasting evidence. scite is used by students and researchers from around the world and is funded in part by the National Science Foundation and the National Institute on Drug Abuse of the National Institutes of Health.
hi@scite.ai
10624 S. Eastern Ave., Ste. A-614
Henderson, NV 89052, USA
Copyright © 2024 scite LLC. All rights reserved.
Made with 💙 for researchers
Part of the Research Solutions Family.