Đặt vấn đề: Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ bắt đầu sử dụng sonde Foley để khởi phát chuyển dạ trên các thai trưởng thành bên cạnh phương pháp đang dùng là Dinoprostone đặt âm đạo phóng thích chậm (Propess). Foley có ưu điểm là rẻ hơn Propess, tuy nhiên chưa có nghiên cứu so sánh kết quả của hai phương pháp trên. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả khởi phát chuyển dạ bằng sonde Foley và Propess ở thai phụ ≥ 37 tuần. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng trên 150 thai phụ, trong đó có 75 thai phụ được dùng sonde Foley và 75 thai phụ được dùng Propess. Kết quả: Tỉ lệ khởi phát chuyển dạ thành công ở nhóm Foley (77,3%) thấp hơn nhóm Propess (85,3%) nhưng không có ý nghĩa thống kê (RR=0,91; KTC 95%: 0,78-1,06, p=0,209). Thời gian trung bình để khởi phát thành công ở nhóm Foley tương đương nhóm Propess (9,± 3,3 giờ; 10,1±5,0 giờ, p=0,171). Tuy nhiên, tỉ lệ phải dùng oxytocin để tăng co sau khởi phát thành công ở nhóm Foley gấp 4,7 (KTC 95%: 2,5-8,8) lần; tỉ lệ sử dụng thuốc làm mềm cổ tử cung gấp 2,1 (KTC 95%: 1,2-3,9) lần nhóm Propess. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ sinh đường âm đạo sau khởi phát chuyển dạ thành công (70,7%; 79,7%, RR=0,89; KTC 95%: 0,721,09, p=0,249); thời gian trung bình từ lúc khởi phát đến khi sinh đường âm đạo (14,5±7,8 giờ; 12,7±7,9 giờ, p=0,275). Kết luận: Dùng sonde Foley để khởi phát chuyển dạ có hiệu quả tương đương dùng Dinoprostone, tuy nhiên cần phải dùng oxytocin và thuốc làm mềm cổ tử cung nhiều hơn.